Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong tình hình mới

Trần Ngọc Anh

CT&PT - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Người đã để lại cho nhân loại nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng hệ thống di sản tư tưởng sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Cho đến nay, hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua, song những quan điểm, tư tưởng của Người về nhà nước, pháp luật nói chung và về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng vẫn còn vẹn nguyên giá trị, là cơ sở tư tưởng - lý luận quan trọng, soi đường chỉ lối cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đặc biệt với tư cách là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, trực tiếp chỉ đạo công cuộc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng tới mục tiêu xây dựng Nhà nước ta trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được thể hiện ở những quan điểm cơ bản sau:

Một là, lấy dân làm gốc, nhân dân là nguồn gốc và là chủ thể của quyền lực nhà nước

Đúc kết bài học kinh nghiệm trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”1. Ngay trong Điều 1 Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp do Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”2. “Dân là gốc” nghĩa là mọi việc đều bắt nguồn từ dân, làm được hay không cũng là ở nơi dân. Không có nhân dân sẽ không có lực lượng cách mạng và phong trào cách mạng. Cán bộ, đảng viên mắc bệnh quan liêu, nhũng nhiễu không chỉ thể hiện sự xa dân, không nắm bắt được dân, không thực hiện được sự nghiệp cách mạng cao cả, mà còn khiến dân mất niềm tin vào Đảng, xa Đảng và chế độ. Muốn thực sự lấy dân làm gốc, thực sự muốn gần dân, được dân tin, dân quý thì “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Nói tóm lại, muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”3.

Trong suốt quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn mong muốn và khát khao hành động để xây dựng nhà nước kiểu mới thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong bài viết “Dân vận” đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15/10/1949, Người khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân4. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 cũng thể hiện đầy đủ tư tưởng đó trên cơ sở xác định một trong ba nguyên tắc trụ cột là “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”…

Xuất phát từ quan điểm về quyền làm chủ chính trị của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương quyết tâm tổ chức Tổng tuyển cử ngay sau khi nước ta giành được độc lập. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 03/9/1945), Người nói: “Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v..”5.

Chế độ chính trị dân chủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập dựa trên nền tảng xã hội sâu rộng, ý thức chính trị và sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị, tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Từ đó, Người yêu cầu: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”6. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội không dừng lại ở phương châm chính trị mà đã trở thành những nguyên tắc hiến định. Trong tất cả các bản hiến pháp sau này, những nguyên tắc đó đều được Nhà nước ta tiếp tục khẳng định.

Hai là, tất cả vì con người, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân

Từ năm 1921, khi những ý tưởng đầu tiên về việc thành lập một đảng kiểu mới được hình thành, Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng: “Phải vạch ra một kế hoạch chi tiết về tổ chức sản xuất và tiêu thụ. Nào là phát triển lành mạnh cho trẻ em, giáo dục và lao động nghĩa vụ đối với tráng niên, nghỉ ngơi cho người già, thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải dành cho một số người mà còn cho tất cả mọi người”7. Người trăn trở: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”8. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, xét về bản chất và mục tiêu, “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”9.

Tư tưởng về con người, tôn trọng và bảo đảm quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh nằm trong dòng chảy các tư tưởng vĩ đại của nhân loại. Người khái quát: “Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng đã có những điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội, nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng, họ nhất định sẽ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết”10. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại những tư tưởng cốt lõi trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (năm 1789), Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (năm 1776) coi các quyền con người: quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền tự nhiên, không thể tước đoạt.

Ba là, đề cao vai trò của Hiến pháp

Trong tư tưởng và quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp luôn là yếu tố quan trọng và là tiền đề của chế độ pháp quyền. Tư tưởng đó được Người thể hiện trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam (năm 1919); sau đó, trong Việt Nam yêu cầu ca, tư tưởng về Hiến pháp và pháp quyền đã được biểu đạt rất rõ: “Bảy xin hiến pháp ban hành/Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”11.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh được hình thành và đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam với ba yếu tố trụ cột: (1) chủ quyền của nhân dân, (2) Hiến pháp, (3) quyền tự do, dân chủ của con người, của công dân. Trong đó, Người coi Hiến pháp là tiền đề và điều kiện; dân chủ dựa trên Hiến pháp là bản chất và quyền con người; quyền công dân là mục tiêu và xung lực của sự nghiệp xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa và là động lực phát triển đất nước.

Bốn là, quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên pháp luật; thực hiện pháp luật công bằng với nền hành chính và tư pháp liêm chính, đạo đức, thực sự phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm lợi ích và phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Các lý tưởng và giá trị công bằng, dân chủ, tự do chân chính luôn là những yếu tố hạt nhân trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, về thi hành và áp dụng pháp luật, nhất là trong hoạt động tư pháp. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị dân chủ, công bằng, nhân đạo được thể hiện thông qua phương châm hành động của Nhà nước và của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên. Người nhắc nhở: “Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”12.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các yếu tố pháp luật, kỷ luật, kỷ cương luôn đi liền với yêu cầu về đạo đức, trước hết là đạo đức tận tụy phục vụ nhân dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”13. Người luôn đề cao hành động thực tiễn, nói đi đôi với làm, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn và hiệu quả của các chính sách và pháp luật.

Năm là, khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong tác phẩm Đường kách mệnh (năm 1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò, sứ mệnh to lớn và có tính quyết định của một chính đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin với đường lối chính trị đúng đắn, tư tưởng tiên tiến và tổ chức chặt chẽ. Người nhấn mạnh, mục đích hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, phụng sự lợi ích của nhân dân, dân tộc. Người khẳng định: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”14; “trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng15, “Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”16.

2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về Nhà nước và pháp luật nói riêng, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đúc kết bài học kinh nghiệm quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng và Nhà nước ta, đó là “lấy dân làm gốc”, đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”17, đồng thời nêu vấn đề thực hiện cải cách bộ máy nhà nước, quan tâm, coi trọng và nhấn mạnh nhiệm vụ công tác vận động quần chúng, phát huy sức mạnh quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống xã hội.

Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định, toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, gắn với công bằng xã hội, được triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, đồng thời phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 01/1994) chính thức đưa vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào văn kiện của Đảng, khẳng định nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”18.

Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm sâu sắc hơn quan điểm và nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc xác định nhà nước pháp quyền là một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và là một trong tám phương hướng cơ bản trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đồng thời, khẳng định quan điểm kiên trì xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền.

Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng đã được thể chế hóa rõ ràng và đầy đủ hơn: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (tháng 01/2021) đề ra những định hướng, quan điểm, giải pháp đột phá cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Đồng thời, Đảng ta nêu rõ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ, gắn với đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội; xác định 13 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, trong đó có định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”19. Việc đề ra nhiệm vụ này khẳng định quan điểm kiên trì xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền với lộ trình, bước đi phù hợp và vững chắc.

Như vậy, có thể khẳng định, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá trong tư duy của Đảng ta về xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới, dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu vấn đề nhà nước pháp quyền, đồng thời thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”20. Theo đó, trong quá trình triển khai thực hiện, cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Trước hết, cần nắm vững mục tiêu tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những công việc trọng đại của đất nước, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy, chỉ khi Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra tình trạng dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì khi đó quyền lực nhà nước ở địa phương mới bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Nội dung này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như những thủ đoạn thâm độc khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy, phải quan tâm, chú trọng nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Thứ hai, xây dựng nhà nước kiểu mới phải đi đôi với khắc phục những “căn bệnh” cố hữu của nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ, dao động trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết chống luận điệu mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã dày công xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, tăng cường pháp luật phải đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật để nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật, có biểu hiện thoái hóa đạo đức, làm nguy hại lợi ích của dân, lợi ích của quốc gia, dân tộc. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin dân và trọng dân.

Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên quyết chống “giặc nội xâm” tham ô, lãng phí và quan liêu. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác đối với những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần bảo vệ bộ máy nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.

Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong đó, cần “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước…; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”21. Cùng với đó, phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà nước, tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý...

Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay. Thực tiễn đã chỉ rõ, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; bảo đảm hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ bảy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các cấp, các ngành, các tổ chức chính quyền, đoàn thể và toàn dân phải đặc biệt quan tâm, chú trọng việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, không chỉ coi đây là nhu cầu tự thân, là việc làm thường xuyên hằng ngày, mà còn là yêu cầu và giải pháp thiết thực góp phần làm cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân ngày càng vững mạnh.

Có thể khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là di sản tư tưởng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập, việc tiếp tục kế thừa, vận dụng tư tưởng của Người trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều vô cùng cần thiết và đúng đắn.


1, 4, 6, 9, 11, 14, 16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 453; t. 6, tr. 232; t. 12, tr. 374;

t. 11, tr. 610; t. 1, tr. 473; t. 15, tr. 611; t. 3, tr. 168.

2. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 8.

3, 5, 8, 13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 51-52, 7, 64, 65.

7. Tạp chí La Revue Communiste, ngày 15/5/1921.

10. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 152.

12, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 123, 330.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 446.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 53, tr. 224.

19, 20, 21. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 177, 174, 178-179.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Ngọc Đường: Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 982 (tháng 01/2022).

2. Vũ Đình Hòe: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.

3. GS, TS. Vương Đình Huệ: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Báo Nhân dân điện tử, ngày 16/7/2021, https://nhandan.vn/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh- trong-hoat-dong-lap-phap-gop-phan-xay-dung-va-hoan-thien-nha- nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-post655188.html.

4. Trần Đình Huỳnh, Nguyễn Thị Tố Uyên: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018.

5. PGS, TS. Bùi Thị Ngọc Lan: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 12/10/2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung- dang/-/2018/824161/gia-tri-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-xay-dung- nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-hien-nay.aspx.

Trung tá, ThS. ĐẶNG CÔNG THÀNH

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin