
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Ân là một “thư viện sống khổng lồ” về các vấn đề xã hội - văn hóa - lịch sử Việt Nam qua lăng kính chuyên môn địa chí học. Nhận định này có lẽ không quá lời, và ở thời điểm năm 2025, AI hay Google đều cho phép bạn đọc có thể kiểm chứng trong giây lát.
Ở Việt Nam, nói đến các bộ địa chí của các tỉnh, thành, không thể không nhắc đến Nguyễn Quang Ân. Ông là tác giả và là người tổ chức biên soạn rất nhiều từ điển bách khoa địa phương, địa chí và lịch sử xã, huyện, ngành, nghề có giá trị về những nét đặc thù của các địa phương trong cả nước: từ Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La đến Vĩnh Phúc, Bắc Giang; từ Hà Nội đến Hòa Bình, Thái Bình; từ Nam Trung Bộ đến Tây Nguyên, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Tiền Giang… Nghĩa là dù với mục đích giải trí hay tra cứu học thuật, bất cứ ai muốn tìm hiểu những nét độc đáo của các vùng địa văn hóa Việt Nam, đều có thể tìm đến những tác phẩm của Nguyễn Quang Ân. Chỉ cần nói đến bộ sách Thành lập và thay đổi địa danh, địa giới đơn vị hành chính trong lịch sử Việt Nam với 2 tập đồ sộ, mỗi tập có dung lượng lên đến gần 1 nghìn trang (năm 2024), khảo cứu về sự hình thành và thay đổi địa danh, địa giới các đơn vị hành chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ thời Hùng Vương đến nay cũng có thể thấy tác giả Nguyễn Quang Ân đã lao động miệt mài đến nhường nào.
Trong dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh 2/9, học giả Nguyễn Quang Ân đã cho ra mắt ấm phẩm Sự thật về nạn đói năm 1945 (từ các nguồn tư liệu quý và ký ức) - một công trình hệ thống hóa tư liệu công phu, công bố những kết quả nghiên cứu định lượng cẩn trọng, bằng cái nhìn đủ bình tĩnh về một thảm họa bi thương đã lùi xa 80 năm.
Cuốn sách được bố cục gồm 4 phần.
1. Sự thật trong tiếng nói của các bên
Phần thứ nhất thực chất là bộ sưu tập tư liệu đắt giá, chọn lọc từ các văn bản do Chính phủ Nhật và chính phủ đương thời công bố; các tài liệu đã đăng trên báo chí công khai giai đoạn 1943 - 1945; các bài báo đăng trên sách báo, truyền đơn của Việt Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và những bức ảnh vô giá của “nhà viết sử bằng ảnh” Võ An Ninh về nạn đói năm 1945.
Các nghị định, thông cáo của chính quyền chiếm đóng Nhật Bản và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim có liên quan trực tiếp tới nạn đói được khai thác gồm 20 tài liệu chọn lọc từ báo Đông Phát và Bình Minh năm 1945. Văn bản cho thấy, nạn đói bắt đầu từ năm 1944 và đến đầu năm 1945 đã trở nên vô cùng nguy cấp. Đến tháng 7/1945, ngay cả những người tích trữ hay đầu cơ lương thực, thực phẩm cũng bị khép tội tử hình (theo “Dụ”, một loại văn bản của chính quyền Bảo Đại, số 81, ngày 10/7/1945). Trong khi đó, các biện pháp của chính quyền như quy định về tích trữ thóc, giảm khẩu phần gạo, lập các ban tiếp tế, kêu gọi sản xuất và các nỗ lực khác nhằm ổn định tình hình… lại tỏ ra lúng túng, bất lực. Điều đáng nói là, bộ máy cai trị rất nhũng nhiễu, ngay cả các nghị định của chính quyền cũng “có nhiều điều nhũng lạm và chỉ làm cho dân thêm đói khổ” (chính “Dụ” số 14 và 15 của Bảo Đại, ngày 13/5/1945; phát ngôn chính thống của bộ máy cai trị, chứ không phải tiếng nói của phe đối lập hay của Việt Minh - Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Đối với báo chí công khai do chính quyền phátxít Nhật và thực dân Pháp kiểm soát, nạn đói được tác giả khai thác qua 74 tài liệu, gồm các văn bản của chính quyền và tình hình thực tế được mô tả trong các báo Trung Bắc chủ nhật, Thanh nghị, Tri Tân, Đông Phát và Bình Minh từ năm 1942 đến năm 1945.
Thực tế cho thấy, đến đầu năm 1944, việc buôn bán thóc, gạo từ miền Nam ra miền Bắc phải được cấp phép đi qua các tỉnh. Tháng 7/1944, Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định về việc tự do vận chuyển thóc, gạo đến các tỉnh Hải Dương, Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái và Sơn La. Nhưng các địa phương này lại gây cản trở hoặc không không chấp hành nhằm vụ lợi (báo Thanh Nghị, số 57 năm 1944; số 108 năm 1945). Tại Ninh Bình, tỉnh trưởng lập ra Ủy ban mua thóc cứu đói, nhưng các Ủy ban này lại gồm các quan chức chính quyền, một số nhà buôn và điền chủ, mua thóc với giá từ 105 đến 120 đồng (thấp hơn giá quy định của tỉnh là 140 đồng một tạ). Điều này khiến nạn đói càng thêm trầm trọng, dẫn đến việc báo chí đòi phải đưa ra pháp luật xử lý để làm gương (báo Đông Phát, ngày 06/7/1945).
Đến tháng 3, tháng 4/1945, nạn chết đói và nạn ăn mày do đói khát đã lan rộng khắp các tỉnh miền Bắc. Tại Trại Giáp Bát (một trại cứu tế do Tổng hội cứu tế giúp đỡ người đói ở Hà Nội), buổi sáng ngày 26/4/1945, trong số 3036 người ăn mày do đói kéo nhau về trại thì có 16 người chết; đến chiều, số người vào trại tăng thêm 2000 người, và số người chết trong buổi chiều hôm đó là 18 người (báo Bình Minh số 36, ngày 02/5/1945; báo Tin mới, số 1609, ngày 29/4/1945).
Tại khắp các phố xá Hà Nội, người chết nhiều đến mức Hội Hợp thiện Bắc Kỳ phải yêu cầu người dân hễ thấy xác chết nằm ở đâu thì báo tin cho Hội Thiện biết để thu gom. Người chết lúc đó thậm chí không có quan tài để chôn, Hội Thiện phải ra thông báo rằng “cần rất nhiều chiếu, thừng và vôi, mong các nhà từ thiện quyên giúp” (báo Đông Phát số 6011, ngày 10/5/1945; báo Bình Minh số 36, ngày 02/5/1945).
45 tài liệu trên sách báo, truyền đơn của Việt Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai thác trên các báo Dân tộc, Lao động, Cứu quốc, Cờ giải phóng, tài liệu của Bảo tàng Cách Mạng Việt Nam và tư liệu Nạn đói thảm họa năm 19451. Các tài liệu này cho thấy, tình trạng chết đói diễn ra phổ biến tại khắp các tỉnh như Huế, Quảng Trị, Bắc Kỳ, Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang...; hàng vạn gia đình không có ăn và có người chết đói. Nguyên nhân là do thiên tai lũ lụt, bão liên tiếp xảy ra vào năm 1944 (mưa lớn kéo dài từ tháng 7 đến tháng 10, gấp đôi hằng năm; vỡ đê ở Hà Tĩnh và Nghệ An; sâu bệnh phá hoại mùa màng; mất mùa ở toàn Bắc Bộ). Năm 1945, số lượng ruộng bị ngập lụt và khô hạn không thể trồng lúa là 771.500 mẫu (bằng 1/3 diện tích gieo trồng toàn Bắc Bộ). Số thóc thu hoạch được trong vụ tháng 10/1945 đạt 532.000 tấn, chỉ bằng một nửa số thóc thu hoạch được vào năm 1944, nghĩa là chỉ đủ nuôi 8 triệu người trong 3 tháng, và vì vậy dân sẽ bị đói trong 4 tháng (báo Cứu quốc, số 132, 133, 134, từ ngày 03/01/1946 đến ngày 05/01/1946).
Tuy nhiên, nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn đói là do chính sách bóc lột dã man của Pháp và Nhật đối với đồng bào ta. Hàng chục nghìn hécta ruộng cấy lúa ở Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh… bị phátxít Nhật bắt nhổ đi để trồng đay. Pháp tận thu lương thực để phục vụ chiến tranh, đồng thời để nộp cho quân Nhật (năm 1942, số lương thực bị Pháp thu mua là 18.098 tấn, năm 1943 là 130.205 tấn, năm 1944 là 186.180 tấn), giá mua bán thóc, gạo bị áp đặt vô cùng bất lợi cho nhân dân (báo Cứu quốc số 132, 133, 134, từ ngày 03/01/1946 đến ngày 05/01/1946; các số liệu này chỉ có ý nghĩa tham khảo, giúp các học giả có căn cứ nghiên cứu thêm, bởi cũng trong cuốn sách này, lượng gạo mà Pháp phải nộp cho Nhật trong năm 1942 là 1.050.000 tấn, năm 1943 là 950.000 tấn và năm 1944 là 900.000 tấn, báo Người Hà Nội, số 23, tháng 6/1993).
Đời sống của người dân khi đó vô cùng bi đát. Thảm cảnh chết đói được báo Cứu quốc ghi lại rằng: “Trên đường Thái Bình đi Kiến Xương chỗ nào cũng có trẻ em, cha mẹ chết hết, ngồi kêu khóc ăn xin. Rồi lại xác và xác! Đâu cũng thấy xác người!... Thành phố Hà Nội nồng lên những mùi thịt thối và mùi người chưa chết nhưng cũng không kém mùi thịt chết. Những đám người đói chui xuống gầm xe bò, cúi xuống mặt đất lấm bùn, vơ, quét những hạt gạo rơi; những đám người đói xúm quanh một đống rác tìm lương thực, xúm quanh một đống vỏ ốc, mút mút một cách ngon ơ; một người đàn bà đập chuột, vặt lông nướng rồi ăn;… Những cánh tay, những xe bò, những xe cam nhông suốt ngày đi nhặt xác chết để mang xuống nghĩa trang Hợp Thiện hắt như hắt rác vào những cái hố dài 50, 60 thước sâu ngập đầu người” (báo Cứu quốc, số 132, 133, 134, từ ngày 03/01/1946 đến ngày 05/01/1946).
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong đó có nhắc đến nạn đói năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phátxít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái, sang đầu năm nay từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”.
Nhìn chung, Phần thứ nhất của cuốn sách đã cung cấp một “bức tranh” chi tiết, sống động và thuyết phục về thảm cảnh nạn đói năm 1945, về đời sống khốn cùng của người dân Việt Nam trong giai đoạn khốc liệt của Chiến tranh thế giới thứ hai và những ngày cuối cùng dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Thảm họa xảy ra trong bối cảnh đó cũng đồng thời đưa đến quy luật tất yếu của lịch sử, làm nên thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Sự thật trong ký ức lịch sử
Phần thứ hai của cuốn sách là “tài liệu sau nạn đói”, gồm các tài liệu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu danh tiếng như Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, những sử liệu được ghi chép về nạn đói năm 1945 trong các sách lịch sử địa phương thuộc các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình…; những hồi ức cá nhân nhưng đậm chất tư liệu của nhà văn Tô Hoài và một số tác giả khác, những người trực tiếp chứng kiến thảm cảnh.
Nếu ở Phần thứ nhất, cái nhìn toàn cảnh về nạn đói năm 1945 được phân tích logic bằng những lát cắt lịch sử, xã hội, chính trị… , thì ở Phần thứ hai, những mô tả thực tế, trực quan và trần trụi… sẽ giúp người đọc cảm nhận rõ hơn nỗi bi thương sâu sắc của đồng bào trong thảm họa.
Đó là bài thơ đầy ấn tượng của cụ Nguyễn Công Chuẩn trong một chuyến công tác qua Nam Định - Thái Bình cuối năm 1945, mô tả tình cảnh đói và chết đói của vùng này, đăng trên tờ Đoàn Kết của Ty Văn Hóa Thái Bình, năm 1946. Hay hồi ức của Nguyễn Bá Đạm in trên báo Người Hà Nội đã mô tả một cách chân thực rằng: “Người khất thực tiến vào năm cửa ô ngày một đông. Số người chết đói ngày càng nhiều. Riêng trên vỉa hè Hà Nội hàng ngày thu nhặt tới ba, bốn trăm xác chết… Người gánh nước gạo qua đường tạm nghỉ chân vừa đặt đôi thùng xuống là bốn năm người xúm lại vục cả hai tay vào đáy thùng khua khoắng mò cơm và thức ăn thừa, khi vớt lên ngửi đã có mùi chua. Có người đổi miếng ăn lấy một trận đòn... Cứ sáng ra xác chết lại nằm ngổn ngang trên các hè phố… Những xác chết được ném lên xe. Trông như đống củi khô, trên rắc một lớp vôi bột. Xe chất đầy chuyển đến nghĩa trang Hợp Thiện (nay là đường Minh Khai). Trong nghĩa trang có khu đất rộng đào sẵn từng hố sâu một mét rưỡi, ngang trên hai mét cách nhau luống khoai và dài như con mương, cứ thế trút xác chết xuống rồi phủ đất vùi lên trên. Không một tấm ván, không một nén hương, không được một giọt nước mắt của người thân” (báo Người Hà Nội, số 23, tháng 6/1993).
Trong Chuyện cũ Hà Nội, xuất bản lần đầu năm 1986, nhà văn Tô Hoài viết: Tại chợ Bưởi, “người đói các nơi ùn ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người ta quảy trẻ con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Dắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ… Đêm đêm, các làng quanh chợ, nhiều người phải đi rà rà ngăn không cho người đói vào chết địa phận làng mình. Thấy người chết khiêng quẳng sang nơi khác… Mỗi tối Quyền (một nhân vật trong hồi ức của Tô Hoài) phải đi tua nhiều vòng quanh chợ để xem có ai lẩn vào ngồi chết trong chợ không. Nếu gặp người chết rồi. Quyền lẳng lặng khiêng vứt lên đầu Đường Thành sang địa phận làng khác để khỏi phải thuê chôn… Người chết nhiều đến nỗi không thể chôn kịp, vì người đi chôn cũng đã ốm đói rồi. Khi đi nhặt xác, gặp ai còn ngắc ngoải, bọn này cũng lôi đi chôn vì nếu có để lại thì rồi cũng chết nốt. Lúc bị vùi xuống hố, những người ấy còn chắp tay van lạy, nhưng bọn người đi chôn cũng cứ lấp đất đi vì nếu không chôn được nhiều người thì không được trả công, bởi cũng đương đói lả đi cả, còn lo hôm sau chẳng còn sức mà đi chôn người kiếm cái ăn”.
Những đoạn đăng trên báo Tin mới (tháng 5/1945), viết về cuộc điều tra tháng 4/1945 của Ủy ban liên lạc Tổng hội cứu tế, sau đó bị phòng kiểm duyệt của Nhật bắt bỏ, được Tô Hoài dẫn lại như sau: “Trẻ con bị vứt đầy dọc đường vì bố mẹ không nỡ trông thấy chúng nó chết trên tay… Dân số phủ Kim Sơn (Ninh Bình) ngót 11 vạn, 1 vạn đã bỏ đi. Mỗi ngày có 400 người chết. Nếu không được cứu, đến tháng năm, số chết sẽ tới năm vạn… Phủ này trẻ con từ 7, 8 tháng đến 1,2 tuổi bị cha mẹ bỏ hoặc cha mẹ đã chết ngồi nheo nhóc khắp nơi, đi đường nào cũng thấy… Dân số phủ Nghĩa Hưng (Nam Định) có 15 vạn người, số chết mỗi ngày khoảng 500… Dân đói phải ăn củ chuối và ăn cả thịt người. Bắt trẻ con 5, 6 tuổi rồi đào lỗ chôn xuống, lấp đất, hun lửa trên, xong đem bán lẫn với thịt chó, bán giả thịt chó. Việc này có biên bản rõ của ông Phủ sở tại kèm theo”.
Những tư liệu trên đã phản ánh một cách chân thực sự khốc liệt của thảm cảnh nạn đói, phản ánh sự mất mát, tuyệt vọng, nỗi đau tột cùng của con người và xã hội Việt Nam trong giai đoạn đó. Những hình ảnh được mô tả trong Phần thứ hai của cuốn sách thực sự ám ảnh. Không phải ngẫu nhiên mà hơn 40 năm sau nhà văn Tô Hoài vẫn cảm thấy rùng mình khi nhắc lại: “Nói bao nhiêu về cảnh đói 1944 - 1945 cũng vẫn chưa thấm. Chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.
Không chỉ là những nội dung hồi tưởng, cuốn sách còn dẫn lại những trang sử liệu đặc biệt có giá trị về tình hình Việt Nam và Đông Dương những năm 1940 - 1945; các số liệu, dữ liệu, sự kiện chính trị - xã hội có liên quan đến nạn đói năm 1945 được đề cập trong Lịch sử tám mươi năm chống Pháp (năm 1961) của nhà sử học Trần Huy Liệu; Giai cấp công nhân Việt Nam - từ Đảng Cộng sản thành lập đến Cách mạng tháng Tám (năm 1962) của nhà sử học Trần Văn Giàu và Lịch sử Việt Nam (năm 1985) của Nxb. Khoa học xã hội…
Cuốn sách cũng đã dày công tra cứu và tập hợp rất nhiều số liệu giá trị về nạn đói, về tình hình chính trị - kinh tế - xã hội tại các địa phương giai đoạn năm 1945 trong các bộ lịch sử địa phương (kể cả lịch sử tỉnh, lịch sử huyện, lịch sử xã) như Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình…
3. Sự thật trong khảo sát định lượng
Phần thứ ba của cuốn sách là những kết quả điều tra thực địa, phỏng vấn nhân chứng, nhằm thu thập số liệu, dữ liệu định lượng về nạn đói năm 1945 tại 19 điểm thuộc 8 tỉnh/thành miền Bắc Việt Nam. Trong giai đoạn từ năm 1992 đến năm 1994, Nguyễn Quang Ân cùng một số địa phương đã thực hiện điều tra xã hội học lịch sử về nạn đói năm 1945 thuộc thành phố Hải Phòng, các tỉnh Thái Bình, Nam Hà, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú, Hòa Bình và Hưng Yên (gọi theo tên chính thức của các tỉnh/thành thời điểm đó). Việc nghiên cứu định lượng trong sử học cũng là một nét độc đáo trong sử dụng phương pháp nghiên cứu. Nhiều người cho rằng đây là lần đầu tiên điều tra xã hội học được chính thức thực hiện trong nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam. Những nhân chứng trong nạn đói năm 1945 là những người cung cấp thông tin chi tiết.
- Tại tỉnh Thái Bình, 9 thôn, xã được lựa chọn làm điểm thực hiện điều tra. Những điểm điều tra có số lượng người chết đói nhiều nhất là:
+ Xã Việt Thuận (huyện Vũ Thư) có số người chết đói là 2.120 người, chiếm 46% dân số trong xã (chưa kể đến hàng trăm người đi kiếm ăn ở nơi khác cũng bị chết đói). Riêng xóm Chợ Mét thuộc xã này có 37 hộ thì có tới 17 hộ có người chết; 19 hộ chết cả nhà; tỷ lệ người chết chiếm 85% dân số cả xóm.
+ Thôn Lương Phú (xã Tây Lương, huyện Tiền Hải) vốn là làng chài được thành lập từ thời Lê - Trịnh, khoảng 300 năm trước. Dân chủ yếu sống bằng nghề đánh bắt thủy sản và làm thuê. Khi nghề biển suy giảm, nhiều người chuyển sang làm ruộng hoặc nghề khác, nhưng do thiếu đất canh tác (chỉ khoảng 30 mẫu), dẫn đến tình trạng thiếu lương thực. Khi nạn đói xảy ra, Lương Phú có 594 người chết đói, chiếm đến 43,07% dân số.
- Tại thành phố Hải Phòng, hai thôn được chọn làm điểm thực hiện điều tra là thôn Quần Mục, xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy và thôn Chi Lai, xã Trường Thành, huyện An Lão. Tại thôn Quần Mục, một làng chài ven biển có 253 hộ/355 hộ gia đình có người chết đói, bằng 71,27% tổng dân số của thôn, trong đó có 79 gia đình không còn ai.
- Tại tỉnh Nam Hà, hai điểm được chọn để thực hiện điều tra là thôn Đồng Côi, xã Nam Giang, huyện Nam Trực và thôn Hổ Sơn, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản. Dân số thôn Đồng Côi là 1.400 người, trong đó tổng số người chết đói là 781 người, chiếm 55,99% dân số toàn thôn.
- Tại tỉnh Ninh Bình, điểm được chọn để thực hiện điều tra là thôn Tây Yên, xã Khánh Thượng, huyện Tam Điệp. Tây Yên vốn là một thôn nghèo, dân số 494 người, chủ yếu sống bằng nghề nông. Khi nạn đói xảy đến, người chết đói trong thôn lên đến 189 người, chiếm 38,26% dân số trong thôn.
- Tại tỉnh Vĩnh Phú, hai điểm được chọn để thực hiện điều tra là thôn Do Nhân Hạ, xã Tiền Phong, huyện Mê Linh và thôn Nại Tử Châu, xã Chu Phan, huyện Mê Linh. Trong đó, thôn Do Nhân Hạ có dân số 480 người, số người chết đói là 138 người, chiếm tỷ lệ 28,75% dân số trong thôn.
- Tại tỉnh Hòa Bình, điểm được chọn để thực hiện điều tra là xã Yên Quang, huyện Lương Sơn, một xã miền núi nghèo, dân cư chủ yếu là người dân tộc Mường. Năm 1944, dân số của xóm là 146 người, trong đó số người chết đói là 41 người, chiếm 28,10% dân số trong xóm.
- Tại tỉnh Hà Tây, điểm được chọn để thực hiện điều tra là thôn La Khê Bắc, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, một làng nghề dệt lụa nổi tiếng. Năm 1944, người dân La Khê Bắc phải bán khung cửi, đồ đạc và nhà cửa mà vẫn không thoát khỏi nạn chết đói. Thôn có 139 hộ với 625 nhân khẩu, trong số đó chỉ tính riêng 79 hộ đã có 177 người chết đói, chiếm 56,83% số hộ và chiếm 27,14% dân số trong thôn.
- Tại tỉnh Hưng Yên, điểm được chọn để thực hiện điều tra là thôn Phương Thông, xã Phương Chiểu, huyện Phù Tiên. Dân số của thôn Phương Thông là 782 người với 153 hộ gia đình. Số người chết đói là 180 người, chiếm 23% dân số trong thôn.
Mặc dù điều tra xã hội học về nạn đói năm 1945 chỉ thực hiện được ở 19 địa phương tại 8 tỉnh, thành trong cả nước, song qua đó cũng phần nào giúp các thế hệ người Việt Nam hôm nay có cái nhìn chân thực và sâu sắc về thảm họa nạn đói năm 1945. Không chỉ gây ra những tổn thất nặng nề về nhân mạng, nạn đói năm 1945 còn để lại những tổn hại sâu sắc về mặt tâm lý, xã hội, văn hóa và chính trị.
Ở Phần thứ tư, cuốn sách giới thiệu những hoạt động điều tra, nghiên cứu, truyền thông, hợp tác quốc tế… mà tác giả Nguyễn Quang Ân đã cùng các đồng nghiệp thuộc Viện Sử học tiến hành nghiên cứu về nạn đói năm 1945. Sự góp mặt của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh, GS. Văn Tạo, các học giả tên tuổi trong nước và nước ngoài, các nhà làm phim Nhật Bản và Việt Nam, tư liệu các bài báo, bản tin truyền hình, hoạt động khảo cứu về dấu tích nạn đói cứu trên nhiều vùng, miền của đất nước… đã góp phần gia tăng độ tin cậy và giá trị của cuốn sách.
Có thể nói, cuốn sách Sự thật về nạn đói năm 1945 (từ các nguồn tư liệu quý và ký ức) là một bộ sưu tập đa dạng các tư liệu có giá trị về nạn đói năm 1945. Vì vậy, đây có thể sẽ là khởi nguồn cảm hứng cho nhiều nghiên cứu chuyên sâu khác. Việc tập hợp các văn bản gốc từ các phía đối lập (chính quyền Nhật, Chính quyền thân Nhật, chính quyền Pháp và Việt Minh - chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đã phản ánh tính xác thực và giá trị khách quan của cuốn sách. Trong đó, điều quan trọng hơn cả là các tư liệu đều khẳng định rằng, nạn đói năm 1945 không chỉ đơn thuần là do thiên tai, mà đó thực sự là một thảm họa - “nhân họa” do phátxít Nhật và thực dân Pháp gây ra, với chính sách cai trị tàn bạo và sự tiếp tay của một bộ phận quan lại người Việt. Và chính nỗi thống khổ tột cùng, sự căm phẫn lên đến đỉnh điểm của nhân dân ta trong tận cùng đau thương chính là ngọn lửa thổi bùng lên ý chí cách mạng, dũng cảm đứng lên đấu tranh để giành lại quyền được sống, quyền được tự do, làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
1. La grande Famine de 1945: Témoigangé et tài liệu Francais relatifs a la Colonization Francaise au Việt Nam, 1945.