Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có một lịch sử phát triển, bản sắc văn hóa riêng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng bào dân tộc thiểu số giữ vai trò quan trọng, không chỉ góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc mà còn đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh biên giới và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, trước những âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, cộng đồng các dân tộc thiểu số đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Lợi dụng sự khác biệt về văn hóa, kinh tế, tôn giáo, các thế lực không ngừng kích động chia rẽ, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước nhằm gây mất ổn định chính trị, làm suy yếu sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó, “phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có ý nghĩa then chốt”1, nhất là việc phát huy sức mạnh nội sinh của đồng bào dân tộc thiểu số chính là giải pháp tăng cường sức đề kháng trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
1. Sức mạnh nội sinh của đồng bào dân tộc thiểu số - yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa và củng cố khối đoàn kết dân tộc
Sức mạnh nội sinh là nguồn lực mang tính nền tảng, được hình thành và phát triển từ bên trong mỗi cá nhân, cộng đồng hay quốc gia. Ở tầm vĩ mô, đó là sự hội tụ của trí tuệ con người, bản sắc văn hóa, truyền thống lịch sử, tinh thần cố kết cộng đồng và tiềm năng sáng tạo - khoa học - công nghệ. Đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam, sức mạnh nội sinh không chỉ là yếu tố bảo tồn và phát triển bản sắc, mà còn là động lực quan trọng góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và kiến thiết đất nước. Sức mạnh nội sinh của đồng bào dân tộc thiểu số được thể hiện qua một số khía cạnh:
Thứ nhất, về truyền thống đoàn kết và tinh thần yêu nước.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã nhiều lần khẳng định vai trò và đóng góp to lớn của đồng bào dân tộc thiểu số trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Sự gắn kết bền chặt giữa các dân tộc anh em đã trở thành một nguồn lực tinh thần to lớn, đặc biệt trong những thời khắc cam go của lịch sử.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều địa bàn miền núi - nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số đã trở thành căn cứ cách mạng vững chắc, là hậu phương chiến lược cho tiền tuyến lớn. Không chỉ trực tiếp tham gia chiến đấu, đồng bào còn tích cực đóng góp sức người, sức của với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Những tấm gương anh hùng như Bế Văn Đàn (dân tộc Tày) - người lấy thân mình làm giá súng cho đồng đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hay Nông Văn Dền (dân tộc Nùng) - tức Kim Đồng, đội trưởng đầu tiên của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ giao liên là biểu tượng cho tinh thần yêu nước và khí phách cách mạng của thanh niên dân tộc thiểu số Việt Nam.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp tục thể hiện vai trò là chủ thể sáng tạo, là lực lượng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng cao, vùng sâu, đồng thời giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nền tảng cốt lõi để Việt Nam vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển bền vững.
Thứ hai, bản sắc văn hóa độc đáo và đa dạng.
Bản sắc văn hóa dân tộc là kết tinh của lịch sử, là “hồn cốt” của mỗi cộng đồng người trong tổng thể văn hóa Việt Nam. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, bản sắc văn hóa không chỉ là phương diện nhận diện cộng đồng, mà còn là một trong những trụ cột quan trọng cấu thành sức mạnh nội sinh, góp phần bền vững hóa mối quan hệ giữa con người - thiên nhiên - xã hội trong tiến trình phát triển.
Mỗi dân tộc thiểu số đều có hệ giá trị văn hóa đặc thù, thể hiện qua ngôn ngữ, trang phục, phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian... Những yếu tố này không chỉ phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan riêng biệt, mà còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc và tinh thần cố kết cộng đồng. Các lễ hội truyền thống như Gầu Tào của người Mông, Xên Bản - Xên Mường của người Thái, hay lễ mừng lúa mới của người Ê Đê… không đơn thuần là sinh hoạt nghi lễ, mà là không gian hội tụ của ký ức cộng đồng, của tinh thần tương thân tương ái và sự chuyển giao di sản giữa các thế hệ.
Tính đa dạng trong bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số không chỉ làm nên sự phong phú, đa tầng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, mà còn là di sản văn hóa vô giá của quốc gia. Đặc biệt, đây còn là nguồn lực mềm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong các lĩnh vực như du lịch văn hóa, công nghiệp sáng tạo, giáo dục liên văn hóa và ngoại giao nhân dân. Việc nhận diện, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân tộc thiểu số chính là cách để tăng cường nội lực văn hóa của đất nước, góp phần khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh khốc liệt về giá trị bản sắc.
Thứ ba, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển.
Mặc dù, sinh sống ở những nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nhưng đồng bào dân tộc thiểu số luôn cố gắng phấn đấu vươn lên, không ngừng tìm kiếm phương thức sản xuất mới và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề truyền thống. Tại các vùng núi phía Bắc, đồng bào dân tộc Mông đã áp dụng các giống lúa mới có năng suất cao, kháng bệnh để cải thiện đời sống. Ở Tây Nguyên, người Ê Đê, M'nông đã phát triển mô hình trồng cà phê, hồ tiêu chất lượng cao. Khát vọng phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống thúc đẩy các dân tộc thiểu số không ngừng học hỏi, sáng tạo và đổi mới. Những nỗ lực này đã giúp họ vượt qua khó khăn, xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả, từ đó cải thiện đời sống và góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Sức mạnh nội sinh của đồng bào dân tộc thiểu số chính là nền tảng quan trọng giúp họ vượt qua khó khăn, phát triển bền vững và đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc phát huy sức mạnh này không chỉ giúp đồng bào nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa mà còn góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong bối cảnh hội nhập và phát triển. Đồng thời, đây cũng là yếu tố quan trọng để đồng bào dân tộc thiểu số chủ động tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vạch trần và đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn định chính trị và trật tự xã hội.
2. Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn coi vấn đề dân tộc, tôn giáo là một mũi nhọn tấn công đặc biệt nguy hiểm nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới gây rối loạn xã hội và lật đổ chế độ chính trị ở Việt Nam. Những luận điệu xuyên tạc, sai trái của chúng thường xoay quanh một số thủ đoạn sau:
Thứ nhất, lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết, tiếp tay cho lực lượng phản động, móc nối với các phần tử đội lốt tôn giáo, dân tộc, lợi dụng kẻ bất mãn, cài cắm gián điệp nhằm tạo lực lượng chống đối từ bên trong.
Một trong những thủ đoạn nguy hiểm mà các thế lực thù địch sử dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc là kích động tư tưởng ly khai, tự trị. Chúng lợi dụng sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng giữa các dân tộc để gieo rắc tâm lý bất mãn, làm suy giảm niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Chúng cố tình thổi phồng mâu thuẫn dân tộc, tuyên truyền rằng một số dân tộc có nguồn gốc riêng biệt, không thuộc cộng đồng dân tộc Việt Nam. Một số tổ chức phản động đã lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa thành lập “nhà nước riêng” hay “quốc gia độc lập”. Điển hình như từ năm 2003 - 2004, các thế lực phản động đã tuyên truyền, lôi kéo, gieo rắc vào tư tưởng của người dân tộc Mông thành lập một “nhà nước Mông” độc lập tại vùng Tây Bắc, kích động một số người dân di cư tự do, tụ tập, gây rối nhằm tạo cớ cho sự can thiệp từ nước ngoài.
Không chỉ tuyên truyền xuyên tạc, các thế lực thù địch còn tìm cách lôi kéo, tác động vào những cá nhân có ảnh hưởng trong cộng đồng, như già làng, trưởng bản,... Chúng dụ dỗ, mua chuộc bằng tiền bạc, lợi ích vật chất, thậm chí hứa hẹn đưa ra nước ngoài huấn luyện để biến những người này thành công cụ tuyên truyền tư tưởng dân tộc cực đoan. Điển hình như tổ chức phản động lưu vong “Tin lành Đề Ga” đã lợi dụng tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên để tuyên truyền tư tưởng ly khai, kêu gọi thành lập “Nhà nước Đề Ga độc lập”.
Thứ hai, triệt để lợi dụng truyền thông, mạng xã hội để phủ định nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thao túng tâm lý, gây xung đột lợi ích, làm suy giảm niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số vào Đảng, Nhà nước.
Bằng các thủ đoạn tuyên truyền miệng, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các thế lực thù địch đã phát tán những bài viết không đúng sự thật để xuyên tạc, bôi nhọ chế độ của ta, thổi phồng những hạn chế trong công cuộc đổi mới, lợi dụng những khó khăn trong việc thực thi các chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số để gây nghi ngờ, làm suy giảm lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số vào Đảng, Nhà nước.
Với sự phát triển mạnh mẽ của internet, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng mạng xã hội để lan truyền tư tưởng sai lệch, cực đoan. Chúng sử dụng các nền tảng như Facebook, YouTube, TikTok,... để đăng tải những nội dung xuyên tạc, bịa đặt về tình hình dân tộc, tạo ra các hội nhóm kín để lôi kéo, truyền bá tư tưởng chống đối. Chúng dựng lên những câu chuyện giả mạo về việc Nhà nước “đàn áp” đồng bào dân tộc thiểu số, cấm đoán tôn giáo hoặc tước đoạt đất đai. Những thông tin này thường được cắt ghép từ những hình ảnh, video không liên quan hoặc thậm chí lấy từ các sự kiện ở nước ngoài rồi xuyên tạc thành bằng chứng để vu cáo chính quyền. Một số nhóm cực đoan ở nước ngoài như “Montagnard Foundation” (Quỹ Người Thượng) thường xuyên đăng tải các bài viết, video tuyên truyền rằng đồng bào Tây Nguyên bị “cấm” theo đạo Tin Lành, bị chính quyền “đàn áp”. Mục đích của chúng là làm cho cộng đồng quốc tế hiểu sai về tình hình dân tộc ở Việt Nam, đồng thời kích động tâm lý bất mãn. Ngoài ra, các đối tượng phản động còn lập ra nhiều tài khoản ẩn danh trên Facebook, TikTok để phát tán nội dung kích động bạo lực, một số kênh YouTube phản động đã dàn dựng các video giả mạo về việc “đồng bào H’Mông bị đàn áp” rồi tung tin trên các diễn đàn quốc tế nhằm kêu gọi sự can thiệp từ bên ngoài.
Các thế lực thù địch lại xuyên tạc, bóp méo rằng, Nhà nước chỉ “đồng hóa” dân tộc thiểu số, không thực sự quan tâm đến sự phát triển của họ, rằng đồng bào H’Mông ở Tây Bắc bị chính quyền “bỏ rơi”, buộc họ phải di cư sang Lào, Thái Lan để tìm tự do. Chúng vu cáo rằng, chính quyền “cưỡng chế đất” của đồng bào thiểu số để giao cho người Kinh hoặc doanh nghiệp, từ đó gây ra tâm lý bất mãn. Bên cạnh đó, chúng còn tuyên truyền rằng Đảng, chính quyền ép buộc đồng bào thiểu số từ bỏ tiếng nói, chữ viết, trang phục truyền thống.
Thứ ba, kích động, phá hoại, gây mất ổn định chính trị - xã hội, tạo ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự, cổ xúy lối sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc.
Trong bối cảnh bùng nổ thông tin, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng phương tiện truyền thông đại chúng để lan truyền những nội dung, tư tưởng độc hại. Dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn, âm mưu để lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số tham gia các hoạt động gây mất trật tự an ninh, xã hội, chống phá Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, chúng còn cổ vũ lối sống thực dụng, cá nhân, khuyến khích sự thờ ơ, mơ hồ về chính trị, quên đi bản sắc văn hóa truyền thống, đạo đức của dân tộc.
Những âm mưu của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi và thâm độc, mang tính chất nguy hiểm và có ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Chúng lợi dụng mọi kênh thông tin, đặc biệt là mạng xã hội, để lan truyền những luận điệu sai trái, kích động gây bất mãn trong cộng đồng dân tộc thiểu số. Những hành động này không chỉ gây thiệt hại lớn về mặt kinh tế, mà còn làm suy yếu lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, phá vỡ sự đoàn kết dân tộc, tạo ra môi trường bất ổn ở Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện để tránh bị lôi kéo.
3. Một số giải pháp tiếp tục phát huy sức mạnh của đồng bào dân tộc thiểu số, đập tan âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào dân tộc thiểu số hiểu rõ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số nắm vững và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó giúp họ nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Nếu không được cung cấp, trang bị đầy đủ kiến thức, đồng bào dân tộc thiểu số rất dễ bị ảnh hưởng bởi những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, dẫn đến hoang mang, mất niềm tin, thậm chí bị kích động gây ra những hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, công tác tuyên truyền, giáo dục phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và có phương pháp phù hợp với từng đối tượng, giúp đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận thông tin một cách chính xác. Ngoài các hình thức truyền thống, cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, mạng xã hội và truyền thông hiện đại để lan tỏa thông tin. Tổ chức các buổi tọa đàm trực tuyến, phát thanh, truyền hình và video ngắn trên mạng xã hội để người dân dễ dàng tiếp cận thông tin chính xác, kịp thời. Các nội dung tuyên truyền cũng cần được xây dựng dưới dạng infographic, video minh họa trực quan, dễ hiểu. Đặc biệt, chú trọng giáo dục tư tưởng chính trị cho thanh niên là người dân tộc thiểu số bởi đây là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền, vận động cũng như đấu tranh giữ gìn an ninh chính trị, bảo vệ sự ổn định trên mặt trận tư tưởng.
Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò già làng, trưởng bản, những người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số - “những người tiêu biểu, gương mẫu, là điểm tựa của mọi điểm tựa”2. Khi được trang bị đầy đủ kiến thức về chính trị, pháp luật, họ có thể trở thành cầu nối hiệu quả giữa Đảng, chính quyền và nhân dân, truyền tải thông tin đến quần chúng nhân dân một cách gần gũi, dễ hiểu. Do vậy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho lực lượng này, nhận diện rõ các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đồng thời tạo điều kiện để họ phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội tại địa phương. Tăng cường kết nối giữa những người có uy tín với lực lượng Công an, Quân đội, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hình thành một thế trận tư tưởng vững chắc ngay tại cộng đồng dân cư, từ đó đập tan âm mưu “diễn biến hòa bình”.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn hóa không chỉ là cội nguồn bản sắc dân tộc mà còn là sức mạnh, là nền tảng để xây dựng tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng và bản lĩnh chính trị cho đồng bào dân tộc thiểu số. Các thế lực thù địch thường lợi dụng chính sự mai một văn hóa, sự chênh lệch phát triển vùng miền để thổi phồng mâu thuẫn, gieo rắc tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc. Khi bản sắc văn hóa bị phai nhạt, người dân dễ rơi vào trạng thái hoang mang, mất phương hướng và dễ bị dẫn dụ bởi các quan điểm lệch lạc. Khi văn hóa truyền thống được bảo tồn, phát huy và tôn vinh đúng mức, sẽ tạo nên sức mạnh nội sinh, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, giúp người dân tự giác gìn giữ khối đại đoàn kết, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ.
Chú trọng ban hành và thực hiện nghiêm túc các chính sách hỗ trợ bảo tồn tiếng nói, chữ viết, lễ hội, nghi lễ truyền thống, các loại hình nghệ thuật dân gian, nghề thủ công truyền thống của các dân tộc thiểu số như sưu tầm, số hóa, nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống; tổ chức các ngày hội văn hóa dân tộc; hỗ trợ nghệ nhân và phát huy vai trò của cộng đồng trong việc gìn giữ di sản. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc quảng bá hình ảnh các nghệ nhân dân tộc - những người đang gìn giữ và truyền dạy các giá trị văn hóa đặc sắc qua các phương tiện truyền thông, triển lãm, hội thảo, giúp nâng cao vị thế và vai trò của họ trong cộng đồng và xã hội. Quan tâm giáo dục văn hóa dân tộc cho thế hệ trẻ, nhất là trong các trường học tại các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đồng thời, gắn bảo tồn văn hóa với phát triển kinh tế, đặc biệt là du lịch cộng đồng. Những nét đẹp truyền thống nếu được khai thác hợp lý sẽ trở thành lợi thế thu hút du khách, qua đó vừa quảng bá hình ảnh dân tộc, vừa góp phần cải thiện đời sống của người dân.
Thứ ba, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Một trong những yếu tố quan trọng giúp đồng bào dân tộc thiểu số vững vàng trước mọi tác động tư tưởng bên ngoài chính là có đời sống ổn định, kinh tế phát triển và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Các thế lực thù địch thường lợi dụng những khó khăn, bất cập trong phát triển kinh tế để khoét sâu vào tâm lý bất mãn, từ đó tuyên truyền tư tưởng chống đối.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với sự tập trung đầu tư cải thiện hệ thống hạ tầng, như điện, đường, trường, trạm,… bộ mặt nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các tuyến đường bê tông được xây dựng đến hầu hết các trung tâm xã vùng cao; các công trình thủy lợi, hệ thống điện lưới quốc gia, trường học, trạm y tế được đầu tư xây mới và tu sửa. Hệ thống thông tin liên lạc, mạng internet và viễn thông di động được phủ sóng rộng rãi đến từng thôn, bản, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả các mục tiêu đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta cần phải tập trung giải quyết triệt để những khó khăn còn tồn tại tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ khi đó, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội mới thực sự đi vào cuộc sống, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân.
Thứ tư, xây dựng thế trận lòng dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân tại các vùng miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Xây dựng “thế trận lòng dân” chính là quá trình nuôi dưỡng và vun đắp lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu và khát vọng cống hiến của toàn dân tộc. Mục tiêu là tập hợp sức mạnh toàn dân, khơi dậy nội lực, phát huy sức mạnh đại đoàn kết, qua đó tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.
Việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi đây là khu vực có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, đồng thời là nơi tập trung nhiều nét văn hóa đặc sắc, đa dạng về ngôn ngữ, tín ngưỡng và phong tục tập quán. Đây là khu vực có phần lớn diện tích là rừng núi, giáp biên giới, địa hình hiểm trở, dân cư phân tán, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa đồng đều. Chính những đặc điểm này khiến vùng đồng bào dân tộc thiểu số trở thành mục tiêu mà các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng để truyền bá tư tưởng lệch lạc, kích động chia rẽ dân tộc, tôn giáo, gây mất ổn định chính trị, an ninh - trật tự. Trong bối cảnh các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, việc củng cố lòng tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước ngày càng trở nên cấp thiết.
Xây dựng “thế trận lòng dân” trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số chính là tạo nền tảng vững chắc để phát huy sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Điều này đòi hỏi phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính sách dân tộc, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn. Thực hiện tốt công tác dân vận, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang để đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, qua đó xây dựng vững chắc “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.
Thứ năm, xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh là một trong những giải pháp mang tính trụ cột trong việc phát huy sức mạnh nội sinh và đấu tranh hiệu quả với âm mưu “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng của các thế lực thù địch. Khi hệ thống chính trị được củng cố vững vàng, thì lòng dân mới được giữ vững, niềm tin vào Đảng và chế độ mới được tăng cường. Các thế lực thù địch đang tập trung khoét sâu vào sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên để quy chụp đó là bản chất của Đảng, dẫn đến sự hoài nghi và bất mãn trong một bộ phận đồng bào. Đây là những “góc khuất” và là cái cớ để các thế lực thù địch chống phá, từ đó làm suy giảm niềm tin chính trị và đe dọa sự ổn định tư tưởng trong cộng đồng dân tộc thiểu số.
Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, đặc biệt cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số. Chú trọng các khâu tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, gắn bó với địa phương và am hiểu văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào. Bên cạnh đó, cần đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm gần dân, sát dân, lắng nghe và phản ánh được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Sức mạnh nội sinh của đồng bào dân tộc thiểu số là nguồn sức mạnh to lớn đập tan âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết và sức mạnh từ những giá trị văn hóa sâu sắc của các dân tộc thiểu số chính là “lá chắn” vững chắc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự đoàn kết của đồng bào, sức mạnh nội sinh sẽ tiếp tục là yếu tố quyết định, góp phần đập tan mọi âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch, bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, tạo thành sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc.
1. “Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 17/10/2024 https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-dai-doan-ket-toan-dan-toc-ket-hop-suc-manh-dan-toc-voi-suc-manh-thoi-dai-102241017135246702.htm.
2. “Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc”, https://dangcongsan.org.vn/tolam/lists/tinhoatdong/view_detail.aspx?itemid=152&utm_source=chatgpt.com&gidzl=wJmoUj_mAtNX8ZLuqkakS-OiCt3Fj2ny-7jd8CQ_UodvSsTtphrnUVzsEdJAlIGh-7WoA6O7_2ywtVGiS0.