Sự thật về nạn đói năm 1945: Từ tận cùng đau thương đến khát vọng độc lập dân tộc

CT&PT - Hơn 80 năm đã trôi qua nhưng ký ức về nạn đói năm 1945 - thảm họa khiến hơn hai triệu người Việt Nam thiệt mạng vẫn còn là nỗi ám ảnh. Cuốn sách “Sự thật về nạn đói năm 1945 (qua tư liệu và ký ức lịch sử)” của nhà sử học Nguyễn Quang Ân, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành là một công trình sử học đặc biệt góp phần tái hiện chân thực thảm họa đó. Không chỉ khơi dậy ký ức đầy đau thương, mất mát của dân tộc, tác phẩm còn soi sáng nguyên nhân lịch sử và khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí độc lập dân tộc của nhân dân trong thời khắc vận mệnh đất nước đứng trước bước ngoặt.

ss1-1753871335.jpg
 

Cuốn sách Sự thật về nạn đói năm 1945 (qua tư liệu và ký ức lịch sử) được thực hiện trong nhiều năm, kết tinh từ nỗ lực khảo cứu, sưu tầm tư liệu, điều tra thực địa và tổng hợp ký ức của hàng trăm nhân chứng sống. Với kết cấu 4 phần, cuốn sách không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà tác phẩm đã thành công trong việc tái hiện một cách chi tiết, chân thực và đầy ám ảnh thảm họa nạn đói thông qua các nguồn tư liệu đa dạng: từ văn bản chính thức của chính quyền Nhật - Pháp và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, đến các bài báo, truyền đơn của Việt Minh, các ghi chép đương thời, cùng những hồi ký, công trình nghiên cứu sau năm 1945, và đặc biệt là dưới góc nhìn của những con người từng sống trong hoàn cảnh tận cùng đói khổ đó. Nổi bật hơn cả là việc tác giả và các cộng sự đã thực hiện một cuộc điều tra xã hội học quy mô tại 19 điểm thuộc 8 tỉnh, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của nạn đói, để cung cấp những con số và những câu chuyện khiến bất cứ ai tiếp cận cũng phải suy ngẫm; đồng thời hiểu rõ bản chất, nguyên nhân, hậu quả cũng như mối liên hệ giữa thảm họa đói năm 1945 và Cách mạng Tháng Tám.

“Ở Hà Nội, mỗi ngày xe bò đi thu xác chết; ở các tỉnh như Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, cảnh người chết la liệt ven đường, trẻ con bới rác tìm ăn, mùi xác người chết phân hủy bốc lên nồng nặc, người sống không có sức chôn người chết”… Đó chính là hiện thực mà đồng bào ta đã phải trải qua trong những năm tháng đó, hiện thực nghiệt ngã, khốc liệt đến mức vượt xa mọi sự mô tả của văn chương và sự tưởng tượng đơn thuần của chúng ta. Cuốn sách đã đặt nạn đói năm 1945 trong một bối cảnh lịch sử đầy đủ, liên kết giữa yếu tố thiên tai và các chính sách áp bức. Không thể phủ nhận mưa lớn, bão lụt, sâu bệnh và mất mùa là những nguyên nhân tự nhiên dẫn đến thiếu lương thực. Nhưng căn nguyên sâu xa và trực tiếp chính là chính sách bóc lột, trưng thu thóc gạo khắc nghiệt của phátxít Nhật và thực dân Pháp. Hàng trăm nghìn hecta lúa ở đồng bằng Bắc Bộ bị buộc nhổ để trồng đay phục vụ chiến tranh. Tuyến vận tải gạo từ Nam ra Bắc bị cắt đứt. Thóc gạo bị cấm bán, cấm lưu thông, bị tích trữ theo lệnh nhà nước. Thuế thân vẫn thu, thậm chí còn tăng trong thời điểm nhân dân chết đói. Trong khi ấy, bộ máy cai trị lại bất lực, thờ ơ, thậm chí tham nhũng trong cả việc phát gạo cứu đói.

Trên cơ sở nghiên cứu nguồn tài liệu và sử liệu gốc đáng tin cậy, đặt nạn đói vào dòng chảy lịch sử, cuốn sách khẳng định chính thảm họa này đã trở thành giọt nước tràn ly, khiến lòng căm phẫn và tuyệt vọng trong dân chúng bùng phát và trở thành sức mạnh cách mạng. Hàng triệu người Việt Nam khi đó không chỉ chết đói, mà còn chết trong nỗi uất ức, nghẹn đắng vì bị bóc lột, bỏ rơi và tước đoạt nhân phẩm. Và điều quan trọng là từ trong chính bóng tối của thảm họa, ánh sáng lấp lánh của tình người lại được thắp lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đó là những phong trào “hũ gạo cứu đói” , “nhường cơm sẻ áo” , là hành động phá kho thóc Nhật chia cho dân của Việt Minh, là sự dũng cảm của những người đi vận động cứu đói bất chấp bị đàn áp, bắt bớ. Chính tinh thần tương, thân tương ái ấy đã góp phần khơi dậy ý chí độc lập và niềm tin vào một chính quyền mới do nhân dân làm chủ. Chính điều đó đã thổi bùng lên khát vọng độc lập, thôi thúc toàn dân vùng lên trong Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không thể chỉ được hiểu từ góc nhìn chính trị, mà còn phải đặt trong mạch nguồn phẫn uất và sự đồng lòng của hàng triệu con người đã đi đến tận cùng của khốn khổ mà vẫn khát khao được sống, khát khao thay đổi vận mệnh dân tộc.

Dưới góc nhìn sử học, nạn đói 1945 không còn là một sự kiện tách rời hay một bi kịch nhân đạo đơn lẻ, mà là một phần không thể thiếu của tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến thảm họa này như một bằng chứng không thể chối cãi về tội ác của chế độ thực dân - phátxít và tính chính đáng của nền độc lập dân tộc. Ngày 02/9/1945 vì thế không chỉ là ngày khai sinh ra một đất nước, mà còn là ngày khép lại một chương đầy mất mát, bi thương và mở ra tương lai, niềm hy vọng cho hàng triệu người Việt Nam đang khao khát giành lại quyền sống, quyền được tự do.

Lịch sử không chỉ là những gì đã qua, mà còn là yếu tố định hình cách chúng ta sống, nghĩ và lựa chọn ngày hôm nay. Sự thật về nạn đói năm 1945 không chỉ khơi dậy một đoạn ký ức đầy đau thương của đồng bào với sự nghẹn ngào, rưng rưng xúc động và xót xa, mà còn thắp lên trong chúng ta niềm tự hào về lòng yêu nước, ý chí vươn lên và khát vọng cháy bỏng về hòa bình, độc lập, tư do của dân tộc ta. Trong thế giới đầy biến động như hiện nay, nơi ký ức lịch sử dễ bị lãng quên trước những ồn ào của cuộc sống, việc hiểu rõ nỗi đau của quá khứ cũng như cách mà những con người trong quá khứ ấy vượt qua nghịch cảnh chính là phương cách tốt nhất để trân trọng hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Với ý nghĩa đó, Sự thật về nạn đói năm 1945 thực sự là một tác phẩm có giá trị, một sự tái dựng chân thực về một bi kịch lịch sử, song lại chứa đựng thông điệp nhân văn vô cùng sâu sắc. 

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin