Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cột mốc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Chiến thắng Điện Biên Phủ và Chiến thắng mùa Xuân 1975 mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kỳ tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”1. Trong đó, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những mốc son chói lọi bằng vàng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc đến kỷ nguyên khát vọng hùng cường, thịnh vượng và có sức lan tỏa sâu rộng trên thế giới. Không chỉ là thắng lợi của tinh thần yêu nước, trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là sự kiện có tầm vóc quốc tế sâu sắc, góp phần mở ra thời kỳ suy tàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn cầu, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Trên nền tảng di sản quý báu đó, trong kỷ nguyên của hội nhập và toàn cầu hóa, Việt Nam đang từng bước khẳng định vai trò, vị thế của mình là một quốc gia có trách nhiệm, độc lập, sáng tạo, ngày càng có ảnh hưởng trong khu vực và trên thế giới, đóng góp tích cực vào sự nghiệp gìn giữ hòa bình, phát triển bền vững và hợp tác quốc tế.
1. Tầm vóc quốc tế của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Một là, tạo bước ngoặt lịch sử trong trật tự thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vào thời điểm Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, cục diện quốc tế đang trải qua những biến động mạnh mẽ. Các cường quốc thực dân phương Tây như Anh, Pháp dù nằm trong phe thắng trận nhưng lại rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế, quân sự và uy tín chính trị, trong khi một trật tự thế giới mới đang hình thành theo hướng lưỡng cực do Mỹ và Liên Xô chi phối, hay còn gọi là Trật tự Yalta. Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam không chỉ là một sự kiện nội bộ của một dân tộc thuộc địa, mà còn là “cú sốc chính trị” làm rung chuyển toàn bộ cấu trúc chính trị của khu vực Đông Nam Á, đặt ra thách thức đối với hệ thống thuộc địa toàn cầu.
Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định cơ hội cho nhân dân Việt Nam giành quyền độc lập đã tới, những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Hội nghị chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày, từ ngày 19/8, Hà Nội giành chính quyền, tiếp theo Hà Nội và các tỉnh, ngày 23/8, Huế giành được chính quyền, ngày 25/8, Sài Gòn giành được chính quyền, ngày 28/8, Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là địa phương cuối cùng trong cả nước giành được chính quyền. Cách mạng Tháng Tám thành công, lần đầu tiên chính quyền thật sự thuộc về nhân dân.
Ngày 27/8/1945, đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải sớm ổn định tình hình, củng cố chính quyền cách mạng, biến chính quyền đó thành công cụ đắc lực cho việc củng cố khối đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được và để có cơ sở trong việc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội ở Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ. Chính phủ ra Lời tuyên cáo nói rõ: “Nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam hết sức nặng nề. Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và đầy đủ. Bởi vậy, tuân theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng đã quyết định tự cải tổ, mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân giao phó. Chính phủ lâm thời không phải là Chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm các đại biểu của các chính đảng. Nó thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách chỉ đạo trong toàn quốc, đợi đến ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ dân chủ cộng hòa chính thức”2.
Ngày 30/8/1945, trước sự chứng kiến của hàng vạn đồng bào Thừa Thiên Huế, Vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, giao nộp ấn, kiếm cho Chính phủ lâm thời. Trong Tuyên cáo thoái vị, Hoàng đế Bảo Đại đã nêu rõ: “Hạnh - phúc của dân Việt - Nam, độc - lập của nước Việt Nam, muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố Trẫm sẵn sàng hy - sinh hết tất cả mọi phương diện,… Từ nay Trẫm làm vui được làm dân tự - do của một nước độc - lập, chứ Trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay của hoàng - gia mà lung lạc quốc - dân nữa. Việt - Nam độc - lập muôn năm! Dân - chủ Cộng - hòa muôn năm!”3.
Ngày 02/9/1945, “Hà Nội tưng bừng màu đỏ. Một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ những rặng cây, đỏ những mặt hồ, những dòng người đủ mọi màu sắc, từ khắp các ngả tuôn về…”4. Tại Quảng trường Ba Đình, trước cuộc mít tinh khổng lồ của hàng vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với thế giới và toàn thể quốc dân đồng bào về nền độc lập của dân tộc Việt Nam, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”5.
Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày, cuối tháng Tám năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền cả nước về tay nhân dân, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa nước ta thoát khỏi sự áp bức bóc lột, đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ, xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã chính thức ra đời. Đây là minh chứng điển hình cho khả năng tự giải phóng của một dân tộc thuộc địa bằng nội lực, làm “đảo lộn” quan điểm đương thời cho rằng chỉ có các cường quốc mới đủ sức khai sinh độc lập, không cần sự can thiệp hoặc “trao trả” từ bên ngoài; đây là điều chưa từng có trong lịch sử khu vực và là tiền lệ đặc biệt trong hệ thống quốc tế thời hậu chiến. Trên bình diện quốc tế, sự thành công của Cách mạng Tháng Tám đã làm suy yếu tính chính danh của chủ nghĩa thực dân, thúc đẩy làn sóng giải phóng dân tộc lan rộng ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
Hai là, mở đường cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự do, kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, có tác động to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức, nô dịch khắp châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Thắng lợi đó không chỉ là thành quả vĩ đại của một dân tộc nhỏ bé, vừa thoát khỏi ách đô hộ gần một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân và sự chiếm đóng tạm thời của phát xít Nhật, mà còn trở thành một biểu tượng truyền cảm hứng mạnh mẽ cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, một nước thuộc địa ở khu vực Đông Nam Á đã chủ động vùng lên giành chính quyền, thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân bằng chính sức mạnh của toàn dân tộc, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Đây là mô hình cách mạng độc lập, tự lực và hiệu quả mà nhiều quốc gia đang bị đô hộ ngưỡng mộ và học hỏi. Chẳng hạn như phong trào giải phóng dân tộc ở Indonesia (năm 1945), Ấn Độ (năm 1947), Myanmar (năm 1948), Ghana (năm 1957), và sau đó là hàng loạt quốc gia châu Phi và Mỹ Latinh, đã được tiếp sức bởi “hiệu ứng Việt Nam”.
Có thể nói, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở đầu cho làn sóng thứ nhất trong tiến trình phi thực dân hóa toàn cầu. Đây là một đóng góp vô cùng to lớn của nhân dân Việt Nam đối với sự tiến bộ của nhân loại, khẳng định vị thế quốc tế của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh lịch sử thế giới đầy biến động.
Ba là, khẳng định mô hình cách mạng độc lập, sáng tạo và hiệu quả của Việt Nam.
Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, một dân tộc thuộc địa đã giành được chính quyền thông qua con đường đấu tranh cách mạng chủ động, không lệ thuộc vào bất kỳ một lực lượng bên ngoài nào. Không rập khuôn theo bất kỳ mô hình cách mạng có sẵn nào trên thế giới, Cách mạng Tháng Tám đã thể hiện bản lĩnh tự chủ, tư duy sáng tạo và khả năng vận dụng linh hoạt lý luận cách mạng vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được tổ chức và triển khai dựa trên nguyên tắc “tự lực cánh sinh”, huy động sức mạnh nội tại của toàn dân tộc thông qua Mặt trận Việt Minh, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và vũ trang, giữa đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp. Đây là kết quả của một quá trình tích lũy kinh nghiệm đấu tranh, sự chỉ đạo sâu sát của Đảng Cộng sản Đông Dương và tư duy chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến chuyển nhanh chóng, đặc biệt là sự kiện ngày 09/3/1945, phát xít Nhật đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị nêu rõ kẻ thù lúc này của cách mạng là phát xít Nhật. Do đó, Ðảng ta đã “phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Cụ thể, phải thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp; sẵn sàng chuyển sang Tổng khởi nghĩa”6. Chớp thời cơ chiến lược, cuộc Tổng khởi nghĩa đã được phát động một cách mau lẹ, đồng loạt trên phạm vi cả nước, giành chính quyền về tay nhân dân chỉ trong vòng nửa tháng, hầu như không đổ máu, thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật lãnh đạo cách mạng và tổ chức hành động quần chúng.
3. Giá trị và sức lan tỏa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, nền tảng khẳng định vị thế quốc gia độc lập, có chủ quyền và trách nhiệm quốc tế.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại của dân tộc Việt Nam, không chỉ xóa bỏ ách thống trị thực dân, phong kiến, mà còn đặt nền móng cho một nhà nước dân tộc hiện đại, độc lập, có chủ quyền và bình đẳng với các quốc gia khác trên thế giới. Chính thắng lợi đó đã làm thay đổi căn bản vị thế của Việt Nam từ một dân tộc thuộc địa thành một quốc gia có chủ quyền, được cộng đồng quốc tế công nhận.
Giá trị đó tiếp tục được kế thừa trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu hiện nay. Việt Nam đã khẳng định được vị thế ngày càng quan trọng trong các tổ chức khu vực và quốc tế, thể hiện rõ nhất qua việc đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, đồng thời chủ trì nhiều hội nghị đa phương tầm cỡ quốc tế.
Chiến thắng này còn là minh chứng cho một chân lý mang tính phổ quát: một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có khát vọng độc lập và tinh thần đoàn kết, hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược hùng mạnh nhất. Thành quả cách mạng của Việt Nam đã trở thành ngọn cờ, biểu tượng cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nhất là tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh - nơi các dân tộc thuộc địa đang tìm con đường thoát khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Thứ hai, thể hiện vai trò tiên phong trong bảo vệ luật pháp quốc tế, hợp tác vì hòa bình và phát triển.
Giá trị cốt lõi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là khát vọng tự do, mà còn là tinh thần yêu chuộng hòa bình, thượng tôn pháp luật quốc tế và chủ nghĩa nhân văn. Ngay từ bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viện dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng: Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1789, khẳng định chân lý: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Trên nền tảng đó, Việt Nam kiên định con đường đối ngoại hòa bình, không liên kết quân sự, không sử dụng vũ lực, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất quán nguyên tắc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam hiện là thành viên tích cực của gần 70 tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó có vai trò chủ động tại Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM và CPTPP. Báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nhận định: “Việt Nam là một trong những hình mẫu điển hình của sự chuyển đổi từ quốc gia bị chiến tranh tàn phá thành đối tác tin cậy trong hợp tác phát triển và duy trì hòa bình khu vực”.
Từ tinh thần Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục bảo vệ vững chắc các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, thúc đẩy trật tự thế giới dựa trên luật lệ, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược và chủ nghĩa cường quyền đang nổi lên.
Thứ ba, góp phần định hình bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là khởi đầu cho kỷ nguyên độc lập dân tộc, mà còn là cội nguồn hình thành nên bản sắc ngoại giao riêng có của Việt Nam, một nền ngoại giao vừa mang tinh thần dân tộc, vừa kết nối với giá trị toàn cầu.
Trước hết, bản sắc ngoại giao Việt Nam được xác định là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhân văn - chính nghĩa - mềm dẻo - kiên cường. Đây không chỉ là kỹ năng đối ngoại đơn thuần mà là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng nghìn năm: truyền thống “dĩ hòa vi quý”, “tôn trọng chính nghĩa”, “không xâm lấn ai, nhưng quyết không chịu khuất phục trước kẻ mạnh”. Những giá trị này từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ từ những ngày đầu lập quốc qua thư từ ngoại giao, cách ứng xử với cả đồng minh và đối thủ, vừa nguyên tắc nhưng không giáo điều, vừa linh hoạt nhưng không nhân nhượng cốt lõi.
Từ nền tảng đó, Đảng ta đã phát triển đường lối đối ngoại thành “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế”, thể hiện tư duy ngoại giao hiện đại, chủ động, không rơi vào phe phái, cũng không bị cô lập giữa dòng chảy quốc tế. Đường lối này không chỉ bảo vệ lợi ích quốc gia, mà còn khẳng định vị thế Việt Nam là một quốc gia có trách nhiệm, biết cân bằng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích chung toàn cầu.
Hình ảnh “ngoại giao cây tre” được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh như một hình tượng đẹp: tre có gốc vững, thân mềm, rễ bám sâu, sức sống mãnh liệt - phản ánh sự linh hoạt trong phương pháp nhưng kiên định trong mục tiêu. Tre còn là biểu tượng của người Việt: khiêm nhường mà không yếu đuối, mềm dẻo mà không nhu nhược. Chính hình ảnh này đã góp phần làm rõ bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thế kỷ XXI - một nền ngoại giao mang đậm “hồn cốt dân tộc” nhưng rất thức thời, toàn cầu hóa.
Đặc biệt, nội dung nhấn mạnh sự chuyển đổi chiến lược trong tư duy đối ngoại từ “đối phó” sang “chủ động định hình”. Đây là bước tiến có tính đột phá. Nếu trong giai đoạn trước, ngoại giao chủ yếu nhằm bảo vệ chủ quyền và giữ thế cân bằng, thì nay, Việt Nam không chỉ “giữ” mà còn “dẫn” - chủ động đề xuất, tham gia và định hình các sáng kiến toàn cầu như an ninh biển, biến đổi khí hậu, phục hồi xanh, an ninh nguồn nước. Điều này thể hiện Việt Nam đã vượt khỏi vai trò người theo sau, mà đang từng bước trở thành “người kiến tạo” trong trật tự thế giới đa cực, mang tiếng nói độc lập nhưng hài hòa.
Có thể khẳng định, bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thế kỷ XXI chính là sự kế thừa có chọn lọc và sáng tạo tinh thần của Cách mạng Tháng Tám, được hun đúc bởi lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Đó là nền ngoại giao nhân văn, lấy con người làm trung tâm, lấy hòa bình và phát triển bền vững làm mục tiêu, không chỉ phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, mà còn đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung của khu vực và toàn thế giới.
*
* *
Tầm vóc quốc tế của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ dừng lại ở giá trị lịch sử to lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, mà còn tiếp tục lan tỏa như một biểu tượng của khát vọng độc lập, tự chủ và đổi mới sáng tạo, nguồn cảm hứng và sức mạnh dẫn dắt quá trình phát triển một Việt Nam thịnh vượng trong kỷ nguyên mới. Trong bối cảnh cục diện địa chính trị và địa kinh tế toàn cầu đang có nhiều biến đổi nhanh chóng, việc kế thừa và phát huy những giá trị của Cách mạng Tháng Tám là cơ sở để Việt Nam củng cố nội lực, tiếp tục khẳng định tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế, đồng thời đóng góp tích cực vào tiến trình xây dựng hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững trên thế giới.
1. Thiếu tướng, TS. Nguyễn Hữu Hùng: “Tầm vóc vĩ đại, ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 mãi trường tồn”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 23/07/2024, https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/tam-voc-vi-dai-y-nghia-to-lon-cua-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9-mai-truong-ton-786478.
2. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III: Việt Nam Dân quốc Công báo, năm thứ 1, số 1, ngày 29/9/1945, tr. 2.
3. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia: Về Tuyên cáo thoái vị của hoàng đế Việt Nam ngày 24 tháng 8 năm 1945, ngày 07/12/2010, https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/7443/ve-tuyen-cao-thoai-vi-cua-hoang-dje-viet-nam-ngay-24-thang-8-nam-1945.html.
4. Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr. 242.
5. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III: Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 589, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 02/9/1945, tờ 03.
6. "Cách mạng Tháng Tám: Bản hùng ca bất diệt trong đấu tranh giải phóng dân tộc", Trang thông tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19/8/2024, nguồn dẫn: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/cach-mang-thang-tam-ban-hung-ca-bat-diet-trong-dau-tranh-giai-phong-dan-toc-1491926348.