Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập văn hóa
Sau gần 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương hội nhập văn hóa được hiện thực hóa một cách sinh động trong thực tiễn. Nhờ đó, văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, trên phương diện giao thoa văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Thứ nhất, các văn bản pháp lý về quản lý văn hóa từng bước được hoàn thiện. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa phù hợp với tình hình mới. Văn bản pháp lệnh đầy đủ đã dẫn đến những đổi mới trên phương diện quản lý văn hóa. Trong đó, đường hướng “phát triển văn hóa đối ngoại” đã trở thành phương châm chính trong chiến lược đối ngoại của các ngành quản lý văn hóa, cùng với đó là những thay đổi mạnh mẽ về tư duy tiếp biến văn hóa ở mọi nơi, mọi lúc, trên nhiều kênh khác nhau.
Thứ hai, giao lưu văn hóa với nước ngoài ngày càng được mở rộng cùng với quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa ngoại giao quốc tế của Việt Nam, góp phần tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, quảng bá rộng rãi cho hình ảnh đất nước, con người, văn hóa - nghệ thuật Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Nhiều di sản văn hóa Việt Nam đã được ghi danh, xếp hạng là Di sản văn hóa của nhân loại như: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam; Thực hành hát Then của người Tày, Nùng, Thái”; Lễ hội Thành Tuyên. Hệ thống di sản văn hóa phong phú là những tài sản vô giá, có tiềm năng chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam. Lần đầu tiên, văn hóa trở thành một sản phẩm đem lại lợi nhuận, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Như vậy, văn hóa không chỉ có chức năng nhận thức, giáo dục, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người mà còn là nguồn lực nội sinh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với quảng bá văn hóa là sự tiếp biến văn hóa. Quá trình tiếp biến được biểu hiện trên các phương diện như trao đổi học thuật với nhiều quốc gia trên thế giới, trong lối sống và phong cách sống.... Từ đó, người Việt đã quan tâm hơn đến việc thụ hưởng cuộc sống, nâng cao chất lượng sống và thay đổi thái độ ứng xử có liên quan đến các vấn đề mang tầm vĩ mô: bình đẳng giới, ô nhiễm môi trường, văn hóa biển…
Thứ ba, quá trình giao thoa giữa quảng bá và tiếp nhận văn hóa đã hình thành nên những động lực mới để văn hóa phát triển đa dạng, phong phú. Sản phẩm văn hóa tăng đáng kể về số lượng, có dấu hiệu tích cực về chất lượng, đã và đang hình thành nên thị trường sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật… phản ánh mọi lĩnh vực của đời sống, mang dấu ấn thời đại. Vì thế, sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng với phương thức, hình thức biểu đạt mới; thể loại và chủ đề cũng được mở rộng. Một số tác phẩm mỹ thuật, âm nhạc đã nhận được giải thưởng cao trong nước và quốc tế; việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào việc sản xuất sản phẩm văn hóa cũng từng bước được thực hiện.
Có thể khẳng định, những thành tựu trên đã từng bước nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đường lối, phát triển văn hóa vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục:
Một là, thể chế văn hóa. Các chính sách thuế và quy định pháp luật về kinh doanh nghệ thuật, thị trường, quyền sở hữu trí tuệ cần được hoàn thiện. Bổ sung chính sách thúc đẩy sự tham gia vào phát triển văn hóa của các đối tác và của các nguồn lực khác nhau. Cần có cơ chế thúc đẩy và phát huy nguồn lực nhằm tạo nên sự hợp tác chặt chẽ trong phát triển văn hóa; thúc đẩy sự điều phối, kết hợp giữa Nhà nước, các nhà tài trợ, thành phần tư nhân trong phát triển bền vững cũng như trong tăng trưởng, cạnh tranh và cải tổ lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư cho văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa tương xứng với vai trò và vị thế của văn hóa khi đặt trong quan điểm phát triển bền vững đất nước... vì vậy, cần có biện pháp khích lệ tiếp tục đổi mới tư duy văn hóa của các chủ thể văn hóa theo hướng cởi mở, phát huy tính sáng tạo, chủ động.
Hai là, sự hình thành ngành công nghiệp văn hóa, thị trường sản phẩm văn hóa trong khi mô hình quản lý chưa thực sự hoàn chỉnh đã dẫn đến sự khủng hoảng, xuống cấp về đạo đức và lối sống. Lối sống ích kỷ, vụ lợi, thiên về hưởng thụ đang hủy hoại dần nhân cách con người, nhiều giá trị truyền thống vì thế bị mai một, sự khủng hoảng niềm tin trong xã hội, hành vi trái với đạo đức truyền thống gia tăng... Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền và giữa các tầng lớp nhân dân còn lớn. Tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa chưa đạt hiệu quả cao.
Ba là, vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực văn hóa, về năng lực đổi mới, sáng tạo, cải cách lĩnh vực văn hóa để giúp văn hóa phát triển bền vững hơn trong bối cảnh hội nhập quốc tế còn chưa được quan tâm đúng mức; tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ trẻ…
Bốn là, nền kinh tế số, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt ra thách thức lớn đối với sự phát triển của văn hóa. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông đa phương tiện và kỹ thuật số cùng với làn sóng giao thoa, du nhập văn hóa với nhiều yếu tố văn hóa mới đã đặt ra yêu cầu là văn hóa trong nước phải tạo ra những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của công chúng. Trong đó nhấn mạnh nâng cao sức mạnh nội sinh của văn hóa, tiến hành hiện đại hóa văn hóa nhưng không xa rời các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn đứng trước thách thức trong việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, văn hóa với kinh tế, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại...
Những hạn chế trên do những nguyên nhân như: nhận thức về văn hóa và về vị, trí vai trò của văn hóa trong xây dựng, phát triển đất nước có nơi, có lúc chưa thực sự đầy đủ, sâu sắc; một số cấp ủy đảng, chính quyền còn lúng túng trong việc cụ thể hóa yêu cầu văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh; việc xây dựng và phát triển văn hóa chủ yếu tiến hành trong hoạt động văn hóa, chưa tác động sâu rộng, chưa gắn bó chặt chẽ với kinh tế và chính trị. Trong khâu tổ chức thực hiện, năng lực lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể còn nhiều hạn chế, bất cập. Sự phối hợp giữa cán bộ, ban, ngành và đoàn thể trong việc xây dựng và phát triển văn hóa chưa chặt chẽ, rõ ràng; cơ chế, chính sách và giải pháp để phát triển văn hóa trong bối cảnh hội nhập toàn cầu chưa được đầu tư và hoàn thiện…
Một số giải pháp định hướng quá trình hội nhập văn hóa ở Việt Nam trong thời gian tới
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh mới. Ưu tiên xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài. Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại và đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc với tinh thần chủ động để vừa đón nhận cơ hội phát triển vừa vượt qua thách thức, nhằm giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời, hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
Hai là, nâng cao nhận thức và tạo chuyển biến cả xã hội, chú trọng nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành trong xây dựng và phát triển văn hóa để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong đó, tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, nhận thức trong Đảng, trong toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội để văn hóa trở thành một trong những đột phá nhằm phát triển bền vững đất nước trong những năm tới.
Ba là, tập trung xây dựng con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp với yêu cầu của thời đại mới: yêu nước, nhân ái, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo…; hình thành lối sống có ý thức, tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị nhân văn. Vì thế, cần đầu tư nguồn lực hợp lý cho văn hóa, đặc biệt là nguồn nhân lực trực tiếp thực hiện việc chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa.
Bốn là, tăng cường hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập văn hóa quốc tế, quảng bá các thông điệp văn hóa, đưa hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam ra thế giới, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú hơn cho văn hóa Việt Nam. Đây là xu hướng tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Có thể nói, sự phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm tới có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển chung của đất nước. Tận dụng cơ hội, phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu và vượt qua thách thức là phương thức tốt nhất để Việt Nam phát triển văn hóa, thực sự đưa văn hóa trở thành động lực và mục tiêu cho sự phát triển đất nước, đó cũng là trách nhiệm của toàn xã hội trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay.
ThS. Nguyễn Đức Anh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh