1. Từng bước hoàn thiện quan điểm chỉ đạo và pháp lý về bảo vệ môi trường
- Đại hội VII (năm 1991) đánh dấu bước ngoặt nhận thức - từ việc coi vấn đề bảo vệ môi trường là yếu tố phụ đến xác lập vai trò trụ cột trong phát triển bền vững. Trước Đại hội VII, nhận thức của Đảng về bảo vệ môi trường còn khái quát, chủ yếu gắn với kinh tế hoặc sản xuất. Tại Đại hội VII, lần đầu bảo vệ môi trường được nâng lên thành định hướng chiến lược phát triển quốc gia. Đại hội khẳng định: “Tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau”1. Đây là bước ngoặt trong tư duy lý luận của Đảng với hai điểm mới: xác định môi trường là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững và bảo vệ môi trường phải gắn với lợi ích liên thế hệ. Nhờ đó, bảo vệ môi trường được nhìn nhận là trụ cột phát triển song hành cùng kinh tế và xã hội.
- Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 cụ thể hóa nhận thức chính trị thành thể chế pháp lý. Năm 1993, nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo chiến lược, Quốc hội khóa IX thông qua Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên - văn bản pháp lý nền tảng, đặt ra nguyên tắc và cơ chế quản lý môi trường. Luật thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước, mở đầu cho hệ thống pháp luật môi trường hiện đại, tạo hành lang pháp lý để triển khai bảo vệ môi trường một cách hệ thống. Đây là bước ngoặt từ nhận thức chính trị sang thực thi pháp lý trong tư duy lãnh đạo thời kỳ đổi mới.
- Đại hội VIII (năm 1996) của Đảng điều chỉnh tư duy phát triển từ “tăng trưởng bằng mọi giá” sang “phát triển bền vững”. Giữa những năm 1990, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra nguy cơ đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế. Trước thực trạng đó, Đại hội VIII chỉ đạo điều chỉnh mạnh mẽ tư duy: “Đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn về khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái. Áp dụng các công nghệ hiện đại trong việc kiểm soát, đánh giá và xử lý tác động môi trường. Ưu tiên các công nghệ sạch, tốn ít nguyên, nhiên liệu. Đề xuất các phương pháp khoa học và ứng dụng các phương tiện kỹ thuật để hạn chế hậu quả thiên tai”2. Tư tưởng Đại hội VIII thể hiện ba điểm tiến bộ: 1) Chuyển từ khắc phục sang phòng ngừa, lồng ghép bảo vệ môi trường vào sản xuất, quy hoạch; 2) Ưu tiên công nghệ sạch, đề cao chất lượng phát triển bền vững; 3) Gắn kết xu thế toàn cầu, thúc đẩy phát triển xanh. Có thể thấy, Đại hội VIII đã kế thừa và nâng tầm tư duy bảo vệ môi trường, điều chỉnh mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững.
Có thể nói, giai đoạn 1991 - 1996 là giai đoạn bước đầu định hình và hoàn thiện nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ môi trường, ở ba cấp độ: 1) Chính trị - chiến lược (bảo vệ môi trường là định hướng phát triển gắn với phát triển bền vững và lợi ích lâu dài); 2) Thể chế - pháp lý (ban hành Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên, tạo nền tảng pháp lý và quản trị môi trường); 3) Điều chỉnh mô hình phát triển (ưu tiên công nghệ sạch, kiểm soát tác động môi trường, hạn chế đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng). Đây là minh chứng cho tư duy đổi mới toàn diện, đặt nền móng cho chiến lược phát triển bền vững hiện nay.
2. Từ quan điểm chỉ đạo đến thiết kế chiến lược quốc gia - bước tiến chuyển hóa từ nhận thức thành hành động thực tiễn
Sau Đại hội VII và VIII, Đảng phát triển tư duy bảo vệ môi trường theo hướng đột phá, toàn diện, chuyển từ quan điểm chỉ đạo sang thiết kế chiến lược quốc gia, đưa bảo vệ môi trường trở thành trụ cột trong chính sách phát triển.
- Chỉ thị số 36/1998/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là dấu mốc bản lề, xác lập tính chiến lược và toàn dân trong bảo vệ môi trường. Lần đầu tiên, bảo vệ môi trường được khẳng định: “Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hoà bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới”3. Chỉ thị thể hiện nhận thức mang tính hệ hình, chuyển từ tư duy hậu phát triển sang tích hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Đồng thời nêu rõ: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”4. Đây là bước tiến trong nhận thức tổ chức và cơ chế vận hành, khẳng định bảo vệ môi trường là nhiệm vụ liên ngành, liên lĩnh vực và toàn dân, làm nền tảng cho các chương trình phối hợp sau này.
- Đại hội IX (năm 2001) gắn kết bảo vệ môi trường với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp nối quan điểm của Chỉ thị số 36/1998/CT-TW, Đại hội IX chính thức xác lập bảo vệ môi trường là bộ phận không tách rời của phát triển kinh tế - xã hội, nhấn mạnh: “Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là nội dung quan trọng của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác quản lý ở tất cả các lĩnh vực, các vùng; thực hiện nghiêm Luật bảo vệ môi trường”5. Đây là bước tiến trong lồng ghép mục tiêu môi trường vào kế hoạch hóa quốc gia, yêu cầu phát triển tuân thủ tiêu chí môi trường, đồng thời lần đầu tiên đặt bảo tồn đa dạng sinh học song hành với khai thác tài nguyên, thể hiện tư duy hệ sinh thái hiện đại.
- Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nâng tư duy bảo vệ môi trường lên tầm lý luận phát triển bền vững. Nếu Chỉ thị số 36/1998/CT-TW là khởi đầu chuyển biến nhận thức chiến lược, thì Nghị quyết số 41-NQ/TW là bước khẳng định lý luận phát triển bền vững. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững”6. Đó là định vị kép của bảo vệ môi trường: vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Tư duy bảo vệ môi trường chuyển từ phòng vệ sang nâng cao chất lượng tăng trưởng. Nghị quyết cũng xác lập các nguyên tắc nền tảng: phòng ngừa là chính, kiểm soát - xử lý kịp thời, ứng dụng công nghệ, đầu tư trọng điểm, phát huy vai trò của Nhà nước và cộng đồng - làm cơ sở chỉ đạo cho các chiến lược môi trường sau này.
- Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 thể chế hóa tư duy thành công cụ điều hành. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 xác định: “Bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,… Đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững”7. Chiến lược nổi bật với việc chuyển đổi từ định hướng chính trị sang công cụ quản trị nhà nước, gồm 5 nhiệm vụ trọng tâm, 8 nhóm giải pháp và 36 chương trình triển khai toàn quốc. Đây là bước phát triển thể chế quan trọng, thể hiện sự hội tụ giữa tầm nhìn của Đảng và năng lực thực thi của Chính phủ, đưa tư duy môi trường thành hệ điều hành cho quản trị phát triển bền vững.
Có thể nói, từ cuối những năm 1990 đến giữa thập niên 2000 là bước ngoặt trong tư duy của Đảng về bảo vệ môi trường, qua ba nấc thang: nhận thức chính trị (Chỉ thị số 36/1998/CT-TW), coi bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn; xác lập lý luận (Nghị quyết số 41-NQ/TW), coi bảo vệ môi trường là mục tiêu và nội dung của phát triển bền vững; thể chế hóa (Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020), với hệ thống mục tiêu, giải pháp, công cụ cụ thể. Đây là giai đoạn Đảng đổi mới tư duy, chuyển hóa thành chiến lược hành động, đặt nền móng cho chính sách môi trường hiện đại.
3. Điều chỉnh chính sách trước các thách thức môi trường và biến đổi khí hậu theo hướng từ ưu tiên vĩ mô đến hành động cụ thể
Đầu thế kỷ XXI, công nghiệp hóa, hiện đại hóa giúp Việt Nam đạt nhiều thành tựu, song cũng kéo theo tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng, nhất là ở khu công nghiệp, làng nghề, đô thị. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thiên tai cũng ngày càng nghiêm trọng và để lại hậu quả nặng nề. Trước thực trạng đó, Đảng tăng cường điều chỉnh chính sách mạnh mẽ, thể hiện bước tiến về tư duy và cơ chế thực thi. Đặc biệt, tại Đại hội X (năm 2006), Đảng chủ trương chuyển hướng sang phòng ngừa và ứng phó. Đại hội nhấn mạnh: “Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường… Từng bước sử dụng công nghệ sạch, năng lượng sạch”8. Đây là điều chỉnh quan trọng, thể hiện sự chuyển đổi tư duy từ bị động sang chủ động, đề cao phòng ngừa, lựa chọn công nghệ sạch và pháp lý hóa trách nhiệm môi trường, hướng tới phát triển xanh, bền vững.
- Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 củng cố khung pháp lý và mở rộng phạm vi điều chỉnh. Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý môi trường, Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, với những cải cách rõ nét so với Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Luật gồm 136 điều, 15 chương, trong đó nổi bật là: 1) Lần đầu điều chỉnh môi trường biển (Điều 55 - 58), thể hiện tư duy tiếp cận không gian tổng thể; 2) Tăng cường công cụ quản lý hiện đại, như đánh giá tác động, quy hoạch môi trường, tái tạo tài nguyên, ứng dụng công nghệ. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đánh dấu bước hoàn thiện khung pháp lý cho phát triển bền vững trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Nghị định số 25/2009/NĐ-CP về quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển thể hiện tư duy không gian mới. Thực hiện Chiến lược biển đến năm 2020, Nghị định 25/2009/NĐ-CP ra đời với giá trị lý luận và thực tiễn trong phát triển bền vững vùng ven biển. Nghị định có 3 đổi mới: 1) Tiếp cận tổng hợp, liên ngành, quản lý theo không gian địa lý; 2) Phân rõ trách nhiệm giữa các chủ thể, nâng cao phối hợp; 3) Tạo cơ sở pháp lý cho Chiến lược biển, lồng ghép bảo vệ môi trường vào phát triển kinh tế biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu và cạnh tranh tài nguyên. Đây là minh chứng cho tư duy chính sách hiện đại, tích hợp và chủ động phòng ngừa.
Như vậy, trước các thách thức môi trường và biến đổi khí hậu, Đảng, Nhà nước đã kịp thời điều chỉnh chính sách sâu sắc, đồng bộ. Tư duy của Đảng đã phát triển từ nhận thức chính trị thành hệ thống chính sách - pháp luật cụ thể, nhằm ứng phó hiệu quả với các vấn đề môi trường ngày càng phức tạp và toàn cầu.
4. Tích hợp biến đổi khí hậu vào chiến lược môi trường
- Đại hội XI (năm 2011) là bước ngoặt tư duy đánh dấu bước chuyển từ “bảo vệ” sang “ứng phó” - sự tích hợp theo chiều sâu. Trước Đại hội XI, bảo vệ môi trường chủ yếu tập trung vào việc phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm. Đại hội XI đánh dấu bước chuyển quan trọng: từ “bảo vệ” sang chủ động “ứng phó” với các thách thức môi trường, đặc biệt là biến đổi khí hậu, thể hiện sự tích hợp giữa bảo vệ môi trường và ứng phó khí hậu trong một chiến lược thống nhất. Đại hội khẳng định: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân... Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên...”9. Điều này cho thấy tư duy tích hợp đã mở rộng, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch năng lượng và phát triển bền vững. Ứng phó với biến đổi khí hậu trở thành trục xuyên suốt, thúc đẩy điều chỉnh chiến lược theo hướng “xanh hóa” kinh tế.
- Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường xác định biến đổi khí hậu là nhân tố “quyết định” đối với phát triển bền vững. Tư duy “ứng phó” được cụ thể hóa và nâng tầm chiến lược tại Nghị quyết số 24-NQ/TW. Nghị quyết xác định: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng..., là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội”10. Tư tưởng này đánh dấu chuyển từ phản ứng sang chủ động, khi biến đổi khí hậu được lồng ghép vào mọi kế hoạch phát triển, trở thành yếu tố nội tại của chiến lược phát triển bền vững, an ninh năng lượng, lương thực và sinh kế. Nghị quyết cũng nhấn mạnh cơ chế điều phối liên ngành, liên vùng để nâng cao hiệu quả thực thi.
- Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 sửa đổi, bổ sung theo hướng pháp điển hóa tư duy tích hợp - từ chiến lược sang thể chế. Sự tích hợp giữa ứng phó với biến đổi khí hậu và chiến lược môi trường được luật hóa rõ nét trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 - văn bản toàn diện, hiện đại, thể hiện tư duy đổi mới của Đảng. Luật bổ sung: 1) Gắn bảo vệ môi trường với thích ứng biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững; 2) Quy hoạch môi trường gắn với quy hoạch phát triển; 3) Có riêng nội dung về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải; 4) Khuyến khích công nghệ sạch, tuần hoàn tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học. Biến đổi khí hậu được lồng ghép toàn diện trong cấu trúc pháp lý và quy hoạch, bảo đảm thống nhất, hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực.
Có thể nói, quá trình tích hợp ứng phó biến đổi khí hậu vào chiến lược bảo vệ môi trường từ Đại hội XI đến Nghị quyết số 24-NQ/TW và Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thể hiện tư duy thống nhất biện chứng, hiện đại của Đảng. Tư duy này chuyển từ “ý thức nhiệm vụ” đến “chính sách thống nhất” và “thể chế hóa cụ thể”, định vị biến đổi khí hậu là nhân tố chiến lược chi phối toàn diện các định hướng về môi trường, kinh tế - xã hội. Sự tích hợp giữa “bảo vệ” và “ứng phó” hướng tới kinh tế tuần hoàn, xã hội thích ứng, chính sách linh hoạt, tạo nền tảng để Việt Nam thực hiện các cam kết khí hậu quốc tế, đặc biệt sau COP21 và COP26.
Như vậy, việc tích hợp biến đổi khí hậu vào chiến lược môi trường là bước ngoặt lớn trong quá trình hoàn thiện tư duy của Đảng về bảo vệ môi trường. Điều này thể hiện sự cập nhật tư duy hiện đại, linh hoạt, hướng tới phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và khủng hoảng khí hậu. Từ chủ trương đến thể chế, tư duy đó đã hình thành khuôn khổ chính trị - pháp lý vững chắc, làm nền tảng cho hành động hiệu quả hiện tại và tương lai.
5. Định hướng chiến lược toàn diện cho phát triển bền vững
- Đại hội XII (năm 2016) đánh dấu bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về bảo vệ môi trường, khi biến đổi khí hậu lần đầu tiên được đặt trong tầm nhìn chiến lược và tổng thể. Đại hội xác định: “Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn”11. Cách tiếp cận này cho thấy chuyển biến rõ từ nhận thức sang hành động, coi ứng phó biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức, mà còn là động lực đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc kinh tế theo hướng xanh, bền vững.
- Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đánh dấu sự chuyển biến quyết liệt trong định hướng chiến lược “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”. Trước đây, mô hình “phát triển trước, xử lý sau” gây suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Kết luận số 56-KL/TW đánh dấu bước ngoặt về tư duy với quan điểm: “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”12. Đây là tuyên ngôn chiến lược thể hiện tư duy phát triển bền vững, cân bằng giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Bảo vệ môi trường trở thành tiêu chí nền tảng trong chính sách, đặt ra yêu cầu cao hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp, chính quyền và toàn xã hội trong kiểm soát ô nhiễm, sử dụng tài nguyên hiệu quả, hướng tới phát triển xanh.
- Quyết định 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ thể hiện sự hài hòa chiến lược phát triển quốc gia với Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc. Quyết định 622/QĐ-TTg là minh chứng cho việc cụ thể hóa quan điểm của Đảng thành hành động của Chính phủ. Việt Nam xác định 17 mục tiêu phát triển bền vững đến 2030, với 33 chỉ tiêu cụ thể về bảo vệ môi trường, liên quan đến đa dạng sinh học, chất thải, chất lượng môi trường và biến đổi khí hậu. Việc tích hợp mục tiêu quốc gia với chương trình toàn cầu thể hiện tư duy hội nhập chủ động, trách nhiệm quốc tế và tầm nhìn dài hạn - bước phát triển từ “ứng phó” sang “chủ động đồng hành và đóng góp” vào nỗ lực toàn cầu về phát triển bền vững.
- Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 thể chế hóa chiến lược phát triển bền vững là kinh tế tuần hoàn và quyền môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 điều là bước ngoặt trong quản lý môi trường tại Việt Nam. Lần đầu tiên các khái niệm “kinh tế tuần hoàn”, “phân loại rác tại nguồn”, “quyền được sống trong môi trường trong lành” được luật hóa. Luật mở rộng sang quyền xã hội, cho phép người dân giám sát, phản biện. Đây là biểu hiện của tư duy quản trị môi trường hiện đại, minh bạch, công bằng, hướng đến kinh tế sinh thái và tăng trưởng xanh.
- Đại hội XIII thể hiện tư duy chiến lược toàn diện là phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vì con người. Đại hội XIII tiếp tục nâng tư duy bảo vệ môi trường lên tầm chiến lược quốc gia, với định hướng: “Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”13. Vấn đề cốt lõi là không thể phát triển bền vững nếu thiếu bền vững về môi trường. Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trở thành lựa chọn bắt buộc trong bối cảnh tài nguyên suy giảm, biến đổi khí hậu gia tăng và nhu cầu phát triển dài hạn. Đảng cũng nhấn mạnh: “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu”14. Tư duy phát triển bền vững được cụ thể hóa, đặt con người vào trung tâm. Bảo vệ môi trường gắn với quyền lợi người dân, theo hướng phòng ngừa, đề cao vai trò của Nhân dân, trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, doanh nghiệp. Lần đầu, tư duy “môi trường - phát triển - con người” được thống nhất, hướng tới phát triển chất lượng, công bằng, hài hòa với thiên nhiên, đưa Việt Nam vào quỹ đạo phát triển bền vững toàn cầu.
Như vậy, từ Đại hội XII đến XIII, từ Kết luận số 56-KL/TW đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, tư duy của Đảng về môi trường đã chuyển từ nhận thức sang chiến lược toàn diện, với ba đặc trưng nổi bật: gắn bảo vệ môi trường với phát triển con người, chuyển từ kiểm soát ô nhiễm sang kiến tạo kinh tế xanh, và từ quản lý hành chính sang quản trị môi trường hiện đại, minh bạch, có sự tham gia. Tư duy này thể hiện sự trưởng thành về lý luận và tầm nhìn chiến lược, nhân văn, hội nhập, đầy trách nhiệm của Đảng trong phát triển đất nước.
Từ chỗ coi bảo vệ môi trường là một yếu tố phụ trong phát triển, đến nay, Đảng đã nâng vấn đề này thành một trụ cột chiến lược quốc gia, là quan điểm tổng thể, gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ sức khỏe và chất lượng sống của người dân. Sự phát triển nhận thức đó là quá trình đồng hành với thực tiễn phát triển, phản ánh bản lĩnh chính trị, tầm nhìn dài hạn và tinh thần trách nhiệm của Đảng đối với thế hệ hôm nay và mai sau. Điều này thể hiện rõ tinh thần nhân văn, trách nhiệm chính trị cao của Đảng trước những thách thức môi trường trong thế kỷ XXI.
1. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1991, tr. 14
2. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.105
3, 4. Chỉ thị số 36/1998/CT-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
5. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 95.
6. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
7. Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
8. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 94.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 42 - 43.
10. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 141.
12. Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 331.