1. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và vai trò của truyền thông chính sách trong thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
1.1. Về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là khát vọng chính đáng, thiêng liêng và lâu dài của cả dân tộc Việt Nam, thể hiện mong muốn xây dựng một đất nước giàu mạnh, độc lập, có vị thế trên trường quốc tế, trong đó người dân được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và nhân cách. Khát vọng đó không chỉ là một khẩu hiệu, mà còn là động lực nội sinh sâu sắc, phản ánh tinh thần yêu nước, ý chí vượt khó vươn lên, quyết tâm đổi mới sáng tạo để đưa đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc có nguồn gốc sâu xa từ tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ khi đi ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng một xã hội mới - xã hội mà mọi người đều được sống tự do, có cơm ăn, áo mặc, được học hành và được phát triển toàn diện. Người từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”1. Tư tưởng đó đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, thể hiện rõ khát vọng giải phóng dân tộc, hướng đến giải phóng con người, xây dựng một quốc gia giàu mạnh - nhân ái - tiến bộ - bền vững. Khát vọng phát triển của Hồ Chí Minh chính là sự kết hợp giữa ý chí độc lập tự chủ và khát vọng nhân văn sâu sắc, hòa quyện giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò nền tảng, soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đồng thời kế thừa và phát triển những giá trị tư tưởng cốt lõi của Người trong bối cảnh mới. Một trong những điểm nhấn nổi bật là việc Đảng ta xác lập khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”2. Có thể hiểu, “phồn vinh” là sự phát triển toàn diện các lĩnh vực: kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục, quốc phòng - an ninh; “hạnh phúc” là kết quả của sự phát triển, thể hiện qua sự hài lòng về chất lượng cuộc sống, về sự công bằng xã hội và niềm tin vào tương lai. Từ định hướng đó, mục tiêu phát triển được Đảng ta xác định rõ ràng: đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Những nội dung cốt lõi của khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc được thể hiện qua nhiều phương diện và có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Để hiện thực hóa khát vọng đó, toàn xã hội cần chuyển hóa tư tưởng thành hành động, với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân. Truyền thông chính sách, giáo dục, cải cách thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... là những trụ cột không thể thiếu, trong đó truyền thông chính sách đóng vai trò quan trọng: lan tỏa khát vọng, kết nối niềm tin, tạo sự đồng thuận xã hội và khơi dậy hành động tích cực trong mỗi người dân. Khi toàn dân cùng hiểu, cùng tin và cùng hành động vì mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sức mạnh đó sẽ trở thành động lực to lớn đưa đất nước tiến lên vững chắc trong thời đại mới.
1.2. Truyền thông chính sách trong thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Truyền thông chính sách đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội Việt Nam, góp phần định hình tư duy, tạo đồng thuận và thúc đẩy hành động trong thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước. Trước hết, truyền thông chính sách đã và đang phát huy vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Với chức năng trung gian truyền tải nhanh chóng, chính xác và hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo quần chúng nhân dân, truyền thông chính sách trở thành nền tảng hình thành nhận thức xã hội, định hướng tư tưởng và thống nhất hành động trong toàn dân. Khi chính sách được truyền thông một cách dễ hiểu, nội dung sát thực tế và hình thức sinh động, người dân không chỉ hiểu rõ ý nghĩa và mục tiêu của chính sách, mà còn chủ động tham gia thực hiện, qua đó tạo nên sự đồng thuận xã hội - điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển nhanh và bền vững đất nước trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”3. Trong mạch tư tưởng đó, truyền thông chính sách trở thành công cụ thiết yếu để khơi dậy lòng yêu nước, lan tỏa tầm nhìn phát triển, đưa ý Đảng đến với lòng dân.
Bên cạnh đó, truyền thông chính sách còn góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong thực thi chính sách công. Với vai trò như một “người phiên dịch chính sách”, truyền thông giúp các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những nhóm yếu thế, hiểu đúng, đầy đủ và kịp thời các nội dung chính sách. Trong thực tế, không ít chính sách đúng đắn của Nhà nước có phản ứng trái chiều không phải do nội dung sai lệch mà là do công tác truyền thông yếu kém, thiếu đồng bộ hoặc truyền tải không rõ ràng. Tình trạng “khủng hoảng truyền thông chính sách” dễ xảy ra khi dư luận bị dẫn dắt bởi các thông tin phi chính thống, làm giảm niềm tin xã hội và ảnh hưởng đến tiến trình thực thi chính sách. Do đó, việc chủ động truyền thông từ giai đoạn xây dựng đến triển khai chính sách, thông qua các kênh báo chí, phát thanh - truyền hình, mạng xã hội và nền tảng số là giải pháp cần thiết để tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho người dân hợp tác, giám sát và đồng hành cùng chính quyền.
Không chỉ dừng lại ở việc phổ biến thông tin, truyền thông chính sách còn tạo môi trường thuận lợi để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thúc đẩy phản biện xã hội. Truyền thông chính sách cần đóng vai trò như một không gian dân chủ, nơi người dân được tự do thể hiện chính kiến, góp ý, phản biện và giám sát quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Thực tiễn cho thấy, các cuộc tham vấn cộng đồng, thăm dò ý kiến và phản biện xã hội thông qua các kênh truyền thông đã góp phần điều chỉnh nhiều chính sách quan trọng theo hướng hợp lý, sát thực tiễn. Một ví dụ điển hình là quá trình lấy ý kiến của nhân dân đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2023, trong đó hàng triệu ý kiến của người dân, chuyên gia, tổ chức xã hội đã được tiếp nhận và phản ánh trung thực thông qua các phương tiện truyền thông, góp phần hoàn thiện chính sách của Nhà nước trước khi ban hành.
Truyền thông chính sách còn đóng vai trò là một lực lượng quan trọng trong công cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong bối cảnh bùng nổ thông tin, đặc biệt là trên môi trường mạng, truyền thông chính sách không chỉ là công cụ truyền đạt một chiều mà đã trở thành “tuyến phòng thủ” vững chắc trước những âm mưu xuyên tạc, kích động và chia rẽ từ các thế lực thù địch. Các thông tin sai lệch thường lợi dụng khoảng trống thông tin chính thống để gây hoang mang dư luận hoặc dẫn dắt dư luận theo ý đồ của các lực lượng phản động. Do đó, truyền thông chính sách luôn chủ động, nhanh nhạy và định hướng rõ ràng nhằm củng cố niềm tin xã hội, bảo vệ đường lối đúng đắn của Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những vai trò quan trọng trên, truyền thông chính sách ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả truyền thông và quá trình hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc:
Thứ nhất, thông tin chính sách vẫn còn chậm, thiếu nhất quán và chưa thân thiện với người dân. Trong nhiều trường hợp, các chính sách được ban hành nhưng chưa có kế hoạch truyền thông bài bản, đồng bộ, dẫn đến tình trạng người dân tiếp cận thông tin chậm trễ, hiểu không đúng hoặc không đầy đủ. Ngôn ngữ chính sách thường khô khan, pháp lý hóa quá mức, thiếu tính tương tác và thân thiện, khiến thông tin trở nên xa rời thực tiễn, khó tiếp cận đối với các nhóm đối tượng yếu thế như người nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa.
Thứ hai, năng lực truyền thông chính sách ở nhiều cấp, ngành, địa phương còn hạn chế. Không ít cơ quan vẫn xem nhẹ công tác truyền thông chính sách, chưa coi đó là khâu bắt buộc trong quy trình xây dựng và thực hiện chính sách. Đội ngũ làm công tác truyền thông chính sách thiếu tính chuyên nghiệp, còn lúng túng trong xử lý khủng hoảng truyền thông, phản ứng chậm trước các luồng thông tin sai lệch. Chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan truyền thông và các tổ chức xã hội.
Thứ ba, truyền thông chính sách còn thiếu tính tương tác và phản hồi từ phía người dân. Việc người dân tham gia góp ý, phản biện các chính sách thông qua truyền thông vẫn còn hình thức, thiếu chiều sâu và chưa được coi trọng đúng mức. Các hình thức tiếp nhận ý kiến chưa phong phú, thiếu linh hoạt, không tạo được môi trường dân chủ thực sự để người dân có thể tham gia đóng góp ý kiến. Điều này dẫn đến tình trạng chính sách xa dân, thiếu thực tiễn, hoặc khó tạo được sự đồng thuận xã hội cao.
Thứ tư, chưa phát huy đầy đủ vai trò của các nền tảng truyền thông số và mạng xã hội. Mạng xã hội đã và đang trở thành kênh thông tin chủ yếu của công chúng, song nhiều cơ quan vẫn chưa chủ động “đi trước - đón đầu” trong việc tận dụng không gian mạng để truyền thông chính sách. Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động lại khai thác rất mạnh mẽ môi trường này để tung tin sai lệch, xuyên tạc chính sách, gây hoài nghi và chia rẽ xã hội. Nếu không có chiến lược truyền thông chính sách số một cách chuyên nghiệp, chủ động và linh hoạt, sẽ rất dễ để lại “khoảng trống truyền thông”.
2. Một số giải pháp phát huy vai trò của truyền thông chính sách trong thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Một là, nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị về vai trò chiến lược của truyền thông chính sách.
Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, thực hiện mục tiêu đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, việc nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, trong đó có hiệu quả truyền thông chính sách, là yêu cầu mang tính chiến lược. Để làm được điều này, trước hết, cần nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị về vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của truyền thông chính sách đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Truyền thông chính sách không chỉ đơn thuần là hoạt động phổ biến thông tin sau khi chính sách được ban hành, mà cần được xem như một bộ phận không thể tách rời của quy trình chính sách, bao gồm: hình thành chính sách, lấy ý kiến nhân dân, công bố chính sách, tổ chức thực hiện và giám sát, đánh giá chính sách. Việc thiếu nhận thức đầy đủ về vai trò của truyền thông chính sách là nguyên nhân căn bản dẫn đến những bất cập hiện nay, như: coi nhẹ công tác truyền thông, thực hiện rời rạc, thiếu đồng bộ, không có nguồn lực chuyên trách cho truyền thông trong quy trình hoạch định và triển khai chính sách công. Do đó, việc nâng cao nhận thức phải được thực hiện từ cấp lãnh đạo, quản lý - những người trực tiếp quyết định việc phân bổ nguồn lực, xây dựng cơ chế phối hợp và định hướng công tác truyền thông. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội cần đưa nội dung truyền thông chính sách vào chương trình, kế hoạch công tác thường xuyên, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương, đơn vị. Đồng thời, cần xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể về tổ chức truyền thông chính sách, phân định rõ trách nhiệm của từng đơn vị.
Song song với đó, cần thực hiện tuyên truyền trong nội bộ hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương, nhằm lan tỏa nhận thức đúng đắn và thống nhất về truyền thông chính sách. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn hoặc đưa nội dung về truyền thông chính sách vào chương trình đào tạo cán bộ, công chức là một biện pháp thiết thực. Việc lồng ghép truyền thông chính sách vào nội dung sinh hoạt chi bộ, hội nghị tổng kết, các hoạt động chuyên môn tại các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cũng là cách làm hiệu quả để dần hình thành văn hóa truyền thông chính sách trong bộ máy công quyền.
Để nâng cao nhận thức một cách thực chất, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện truyền thông chính sách tại các cấp, các ngành. Đưa tiêu chí truyền thông chính sách vào đánh giá chất lượng điều hành của chính quyền các cấp, từ đó tạo động lực thúc đẩy việc coi trọng và thực hiện nghiêm túc hoạt động này trong thực tiễn. Khi truyền thông chính sách được nhìn nhận đúng đắn, được tổ chức bài bản, có trách nhiệm và gắn với quyền lợi, nghĩa vụ của cán bộ công quyền, khi đó truyền thông chính sách mới thực sự trở thành cầu nối hiệu quả giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, góp phần lan tỏa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hai là, chuyên nghiệp hóa đội ngũ làm công tác truyền thông chính sách.
Trong kỷ nguyên của truyền thông đa nền tảng, đội ngũ làm công tác truyền thông chính sách chính là lực lượng nòng cốt bảo đảm việc kết nối thông tin hai chiều giữa Nhà nước và Nhân dân, từ đó tạo dựng niềm tin xã hội và thúc đẩy sự đồng thuận trong triển khai các chính sách phát triển. Do đó, chuyên nghiệp hóa đội ngũ truyền thông chính sách là yêu cầu cấp thiết mang tính chiến lược, nhằm nâng cao năng lực thực thi chính sách, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Cần xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ theo hướng chuyên sâu và hiện đại. Trước hết, cần xác định rõ tiêu chuẩn, vị trí, nhiệm vụ và tổ chức đào tạo thường xuyên về kỹ năng truyền đạt chính sách, ứng dụng công nghệ số, xử lý khủng hoảng truyền thông và truyền thông tương tác. Đồng thời, ưu tiên tuyển chọn những người có tư duy đổi mới, am hiểu chính sách và thành thạo kỹ năng truyền thông để làm đầu mối tại các bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ truyền thông chính sách, tập trung vào một số nội dung trọng tâm như: kỹ năng biên tập và trình bày chính sách dưới dạng dễ hiểu - dễ nhớ - dễ chia sẻ; kỹ năng xây dựng thông điệp truyền thông phù hợp với từng nhóm đối tượng; kỹ năng phản ứng nhanh với các tình huống truyền thông khẩn cấp hoặc thông tin sai lệch; kỹ năng tương tác, đối thoại công chúng trên môi trường mạng; kỹ năng quản lý và sử dụng hiệu quả các nền tảng truyền thông số.
Để bảo đảm hiệu quả lâu dài, cần xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan truyền thông đại chúng, tổ chức chính trị - xã hội, các viện nghiên cứu và trường đại học trong việc đào tạo, chia sẻ thông tin, triển khai các chiến dịch truyền thông chính sách quy mô lớn. Việc tạo ra một mạng lưới cán bộ truyền thông chính sách gắn kết, có năng lực chuyên môn, khả năng đổi mới sáng tạo và phẩm chất chính trị vững vàng sẽ là nền tảng quan trọng để truyền thông chính sách phát huy vai trò như một kênh kết nối Đảng, Nhà nước với Nhân dân, góp phần xây dựng nhà nước kiến tạo, phát triển vì dân.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức và ngôn ngữ truyền thông chính sách.
Một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay là nội dung truyền thông chính sách còn khô cứng, hình thức thể hiện thiếu sinh động, ngôn ngữ pháp lý hóa nặng nề, khiến việc tiếp cận trở nên khó khăn đối với đông đảo công chúng, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, người có trình độ học vấn hạn chế. Điều này dẫn đến sự thờ ơ, thụ động hoặc hiểu sai lệch chính sách, làm giảm hiệu quả truyền thông và mức độ tham gia của người dân vào quá trình chính sách.
Do đó, đổi mới nội dung, hình thức và ngôn ngữ truyền thông là yêu cầu cấp thiết. Các cơ quan truyền thông và đơn vị thực hiện cần xây dựng các thông điệp chính sách theo hướng dễ hiểu, dễ nhớ, gần gũi và dễ chia sẻ. Thay vì chỉ công bố các văn bản khô cứng, cần tăng cường sử dụng các hình thức trực quan và hiện đại như video ngắn, infographic, hoạt hình, podcast, bài viết ngắn trên nền tảng mạng xã hội… Nội dung cần được trình bày bằng ngôn ngữ phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận, từ người dân phổ thông đến thanh niên, người cao tuổi hay cộng đồng dân tộc thiểu số.
Đặc biệt, cần chú trọng lựa chọn người truyền đạt thông tin phù hợp, có thể là chuyên gia, cán bộ địa phương, người nổi tiếng, người có ảnh hưởng trên mạng xã hội, người dân trực tiếp thụ hưởng chính sách, nhằm tăng tính thuyết phục, tính lan tỏa và tính gắn bó với đời sống thực tiễn.
Bốn là, tăng cường ứng dụng công nghệ số và mở rộng không gian truyền thông.
Trong thời đại số, khi công chúng chủ yếu tiếp nhận thông tin qua mạng xã hội, thiết bị di động và các nền tảng trực tuyến, truyền thông chính sách cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình truyền thống sang mô hình truyền thông số. Đây không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà còn là một chiến lược mang tính đổi mới trong quản trị truyền thông nhà nước.
Cụ thể, cần đầu tư phát triển các nền tảng số chuyên biệt cho truyền thông chính sách như: cổng thông tin điện tử chính sách quốc gia, ứng dụng điện thoại hỗ trợ người dân tiếp cận và tra cứu chính sách, các kênh YouTube hoặc fanpage chính thức cung cấp thông tin cập nhật. Các nền tảng này cần được thiết kế thân thiện, dễ sử dụng, có tích hợp chức năng hỏi - đáp, phản hồi và cập nhật tự động theo nhu cầu người dùng.
Bên cạnh đó, cần áp dụng công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích hành vi người dùng, qua đó cá nhân hóa thông tin, điều chỉnh nội dung phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể. Đồng thời, mở rộng không gian tương tác số giữa cơ quan nhà nước và người dân thông qua các buổi đối thoại trực tuyến, khảo sát chính sách qua mạng xã hội, diễn đàn chính sách mở... Đây chính là nền tảng để xây dựng một môi trường truyền thông dân chủ, minh bạch, kịp thời và hiệu quả.
Năm là, thúc đẩy cơ chế phản biện xã hội và sự tham gia của người dân trong truyền thông chính sách.
Một chính sách chỉ có thể bền vững và hiệu quả khi có sự tham gia thực chất của người dân ngay từ giai đoạn hình thành và triển khai. Truyền thông chính sách cần vượt ra khỏi chức năng truyền đạt một chiều để trở thành kênh kết nối phản biện, lắng nghe và phản hồi.
Để thực hiện điều đó, cần xây dựng các cơ chế cụ thể và linh hoạt nhằm tiếp nhận, tổng hợp và xử lý phản hồi từ nhân dân. Việc lấy ý kiến không chỉ dừng lại ở các hội nghị trực tiếp, mà phải được đa dạng hóa thông qua hình thức khảo sát trực tuyến, diễn đàn công khai, fanpage tương tác, ứng dụng góp ý chính sách… Đặc biệt, cần chú trọng các nhóm đối tượng yếu thế, bảo đảm họ có tiếng nói trong quá trình hoạch định chính sách.
Báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp cần được trao quyền rõ ràng và khuyến khích thực hiện vai trò phản biện xã hội, đóng vai trò trung gian trong truyền đạt ý kiến, kiến nghị của nhân dân đến cơ quan chức năng. Điều này không chỉ bảo đảm nguyên tắc “lấy dân làm gốc”, mà còn giúp chính sách bám sát thực tiễn, khả thi và nhận được đồng thuận cao.
Sáu là, chủ động đấu tranh phản bác thông tin sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trước sự gia tăng của các luồng thông tin sai lệch, độc hại trên không gian mạng, đặc biệt là các luận điệu xuyên tạc chính sách, bôi nhọ lãnh đạo, kích động chia rẽ dân tộc, truyền thông chính sách cần đóng vai trò là “hàng rào phòng thủ tư tưởng” vững chắc, chủ động phát hiện, phản bác và xử lý kịp thời các thông tin sai lệch, đồng thời định hướng nhận thức xã hội.
Để thực hiện hiệu quả vai trò này, cần xây dựng các bộ phận chuyên trách có đủ năng lực phân tích, đánh giá, dự báo rủi ro truyền thông và xử lý khủng hoảng kịp thời. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan báo chí - truyền thông và các lực lượng chức năng để thống nhất tiếng nói, bảo đảm thông tin nhanh, chính xác và định hướng đúng đắn.
Những “khoảng trống thông tin”, sự mơ hồ trong các quy định chính sách hoặc truyền thông thiếu kịp thời, không nhất quán chính là “mảnh đất màu mỡ” để thông tin giả, tin bịa đặt, tin đồn thất thiệt lan nhanh và khó kiểm soát. Đặc biệt, khi các chính sách liên quan đến đất đai, giáo dục, y tế, an sinh xã hội, tôn giáo... được triển khai mà không có chiến lược truyền thông bài bản, các đối tượng xấu có thể dễ dàng xuyên tạc nội dung, thổi phồng vấn đề nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Do đó, truyền thông chính sách cần được xác định là “tuyến phòng thủ tư tưởng” quan trọng, giữ vai trò dẫn dắt và định hướng dư luận xã hội, đồng thời là công cụ chủ lực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác kịp thời các luận điệu sai trái, thù địch. Điều này đòi hỏi truyền thông chính sách phải chuyển từ thế bị động sang thế chủ động - dự báo - phản ứng nhanh - đa dạng hình thức.
Việc phản bác các quan điểm sai trái cần được tiến hành một cách khách quan, có lý lẽ rõ ràng, có căn cứ pháp luật và mang tính thuyết phục cao. Truyền thông chính sách phải thể hiện được tính nhân văn, chính nghĩa và tinh thần phụng sự nhân dân như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Cán bộ “phải thật sự gần gũi nhân dân, lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân”4. Qua đó, củng cố niềm tin xã hội, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo môi trường ổn định để phát triển đất nước.
1, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 15, tr. 627; t. 12, tr. 484.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 34.