1. Đặt vấn đề
An sinh xã hội là hệ thống chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng xã hội phối hợp thực hiện, nhằm bảo đảm cho người dân có mức thu nhập tối thiểu và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin… Thông qua việc nâng cao năng lực tự bảo đảm của mỗi cá nhân và sự hỗ trợ của Nhà nước, hệ thống an sinh xã hội góp phần xây dựng một xã hội công bằng, bền vững. Hiện nay, mục tiêu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam là xây dựng một hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có sự chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư và các thế hệ. Chính sách an sinh xã hội tập trung vào những nội dung chính như:
Tạo việc làm, giảm nghèo bền vững: Hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình, nhất là đối tượng yếu thế, trong phát triển sản xuất, tiếp cận tín dụng, giải quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động.
Mở rộng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp: Tạo điều kiện cho người lao động tham gia hệ thống bảo hiểm để chủ động ứng phó với các rủi ro như thất nghiệp, tai nạn lao động, ốm đau hay tuổi già.
Hỗ trợ đối tượng đặc thù và khắc phục rủi ro: Cung cấp trợ giúp thường xuyên cho người yếu thế và hỗ trợ khẩn cấp trong các tình huống thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh… bằng hình thức tiền mặt hoặc hiện vật từ ngân sách Nhà nước.
Bảo đảm tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: Tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường và thông tin.
2. Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Phước hiện nay
Bình Phước là tỉnh thuộc khu vực Đông Nam bộ, có 03 huyện giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới 258,939 km, có nhiều cửa khẩu và lối mở. Dân số toàn tỉnh có 1.034.667 người, có 41 dân tộc thiểu số sinh sống với 203.519 người (chiếm 19,67%) sinh sống đan xen trên địa bàn 111 xã, phường, thị trấn của 11 huyện, thị xã, thành phố, trong đó: 09 thành phần dân tộc thiểu số có dân số từ 1000 người trở lên, chiếm 98,12% tổng số dân tộc thiểu số và có 32 thành phần dân tộc thiểu số khác là 3.678 người, chiếm 1,88%, trong đó có 10 dân tộc thiểu số có dân số từ 10 người trở xuống là: Giẻ Triêng là 10 người; Cơ Tu là 6 người; Phù Lá 6 người; Pu Péo là 3 người; 4 dân tộc đều có 2 người là Chu Ru, Lào, La Chí, Pà Thẻn và 3 dân tộc đều có 1 người là dân tộc Xinh Mun, dân tộc Lự và dân tộc Chứt1; chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, tập trung ở địa bàn miền núi, vùng sâu, biên giới, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng an ninh. Tình hình đời sống vùng dân tộc thiểu số cơ bản ổn định, công tác chăm lo an sinh xã hội cho đồng dân tộc thiểu số nghèo, khó khăn trên địa bàn tỉnh được chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp chăm lo một cách đầy đủ.
2.1. Thành tựu đạt được
Thứ nhất, chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư.
Không còn phải sống trong cảnh du canh, du cư cũng như bất an tại các vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, điều kiện khó khăn, cuộc sống của hàng nghìn hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã từng bước ổn định khi Nhà nước triển khai công tác định canh, định cư, di dời các hộ về sinh sống tại nơi ở mới. Đặc biệt, để bà con an cư lạc nghiệp, hằng năm, các cấp, các ngành của tỉnh đã lồng ghép nhiều chương trình, đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng và chuyển giao khoa học kỹ thuật giúp đồng bào dân tộc thiểu số từng bước xóa đói giảm nghèo, vươn lên trong cuộc sống. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, ngày 05/3/2007 về chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2009 và Quyết định số 1342/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch hỗ trợ định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cư đến năm 2012 đã tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cư có nơi ở ổn định, có điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Tính đến hết năm 2024, dự án hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư trên địa bàn các xã Phú Văn, xã Đắk Ơ, xã Lộc An, Lộc Thành (huyện Lộc Ninh), xã Tân Tiến (huyện Bù Đốp) và xã Bù Gia Mập (huyện Bù Gia Mập); xây dựng đường giao thông nông thôn tại xã Lộc An, huyện Lộc Ninh; thực hiện xây dựng đường giao thông nông thôn từ thôn Cây Da, xã Phú Văn đến thôn Đắk Á, xã Bù Gia Mập… với nguồn vốn đã phân bổ thực hiện là 52.539 triệu đồng, góp phần ổn định tại chỗ cho gần 1.500 hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh2.
Thứ hai, chính sách giảm nghèo bền vững, đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Công tác giảm nghèo đạt được những kết quả khả quan khi tỉnh triển khai thực hiện lồng ghép các nguồn lực chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo với “Chương trình giảm 1.000 hộ nghèo dân tộc thiểu số” của tỉnh. Tính đến nay, tỉnh không còn xã có tỷ lệ hộ nghèo chiếm 10% trên tổng số hộ dân ở các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Việc thực hiện giảm số hộ nghèo luôn đạt và vượt kế hoạch đề ra, tỷ lệ nghèo đa chiều năm sau giảm so với năm trước, cụ thể: năm 2020, giảm 3.123 hộ theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều (chuẩn nghèo cũ), đạt tỷ lệ 1,22%; năm 2021, giảm 2.378 hộ theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều, đạt tỷ lệ 0,89%; năm 2022, giảm 2.481 hộ, đạt tỷ lệ 0,73%; năm 2023, giảm 2.200 hộ, đạt tỷ lệ 0,63%; đầu năm 2024, toàn tỉnh còn 1.121 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 0,4%3.
Về đào tạo nghề, thực hiện Quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, giai đoạn 2021-2024, tỉnh đã đào tạo nghề cho 64.274/chỉ tiêu kế hoạch 37.000 người đạt tỷ lệ 173,7%, trong đó có 13.832 người là đồng bào dân tộc thiểu số. Riêng năm 2024, chỉ tiêu đào tạo nghề là 12.000 lao động, thực hiện đào tạo 22.040 lao động, đạt 183,6%, trong đó có 2.427 lao động là người dân tộc thiểu số được cấp bằng, chứng chỉ4.
Về giải quyết việc làm, giai đoạn 2020 - 2024 đã giải quyết việc làm cho 209.934/chỉ tiêu 195.000 lao động, đạt 107,7%/chỉ tiêu kế hoạch, trong đó có 28.961 người là đồng bào dân tộc thiểu số; đưa 977 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó có 82 lao động là đồng bào dân tộc thiểu số; duy trì tỷ lệ thất nghiệp thành thị ở dưới mức 3% và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn ở mức trên 90%; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 67%5. Riêng năm 2024, chỉ tiêu giải quyết việc làm là 43.000 lao động, thực hiện 40.633 lao động, đạt 94,5 %. Trong đó có 5.986 lao động là người dân tộc thiểu số/43.000 lao động được giải quyết việc làm chiếm 13,93%6.
Thứ ba, thực hiện chính sách về lĩnh vực y tế và dân số.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh được chú trọng. Mạng lưới y tế đã được phủ kín đến tận các xã, phường, thị trấn; hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân tiếp tục được nâng cao, trong đó về cơ sở khám chữa bệnh. Tuyến tỉnh có Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, tuyến cơ sở gồm 11 trung tâm y tế đa chức năng của 11 huyện, thị xã, thành phố; Tuyến xã gồm 111 Trạm y tế xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 04 Bệnh viện đa khoa Công ty cao su, Bệnh viện Quân Dân y 16, Phòng khám đa khoa Quân dân y Bình Phước, Bệnh xá công an, Bộ đội biên phòng. Y tế tư nhân có Bệnh viện Hoàn Mỹ Bình Phước, 24 phòng khám đa khoa và 600 phòng khám chuyên khoa, góp phần đạt tỉ lệ 9,7 bác sĩ/10.000 dân7… Việc tuyên truyền, vận động và cung ứng các dịch vụ, biện pháp tránh thai hiện đại đến mọi đối tượng người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Các kiến thức về kế hoạch hóa gia đình, đảm bảo sức khỏe sinh sản đã được tuyên truyền phù hợp với văn hóa, tập quán, phong tục của từng dân tộc thiểu số. Công tác tầm soát dị dạng, bệnh tật bẩm sinh và kiểm soát giới tính khi sinh được triển khai thực hiện tốt. Các hoạt động về tư vấn sức khỏe tiền hôn nhân, phòng chống, giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng, góp phần đưa mức giảm sinh đạt từ 0,4% - 0,7% (giai đoạn 2020 - 2022) giảm xuống và duy trì mức giảm sinh 0,2% trong giai đoạn 2022 - 2024 và đã đạt mức sinh thay thế. Tỷ lệ giới tính khi sinh cơ bản duy trì ở mức 112 nam/100 nữ8.
Thứ tư, thực hiện chính sách về giáo dục - đào tạo.
Về công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ cho con em dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới tiếp tục duy trì; công tác vận động, tuyên truyền học sinh dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được các cấp chính quyền, các nhà tài trợ quan tâm, hỗ trợ tiếp sức cho con em đến trường. Toàn tỉnh có 27/111 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập trung học phổ thông; có 140/389 trường được công nhận đạt kiểm định chất lượng giáo dục và chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 35,99%; đến cuối năm học 2023 - 2024, toàn tỉnh có 45.062 học sinh dân tộc thiểu số trên tổng số 257.263 học sinh, ở các cấp học (từ mầm non đến trung học phổ thông) chiếm tỷ lệ 17,51% học sinh toàn tỉnh; có hệ thống trường dân tộc nội trú đáp ứng nhu cầu đào tạo cho con em dân tộc thiểu số trên địa bàn với 07 trường có 1.764 học sinh (01 trường cấp tỉnh, 6 trường cấp huyện; gồm: 04 trường trung học cơ sở, 01 trường trung học phổ thông, 02 trường trung học cơ sở & trung học phổ thông); đa số trường được đầu tư xây dựng mới, đầy đủ phòng học, phòng bộ môn, ký túc xá, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Đến thời điểm tháng 10/2024, công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ có 111/111 xã phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, 11/11 huyện, thị xã, thành phố duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 111/111 xã phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 3, tỷ lệ: 100%, 11/11 huyện, thị xã, thành phố duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; toàn tỉnh có 08/111 xã phường đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở mức 1, tỷ lệ: 7,2%, đạt chuẩn mức độ 2: 60/111, tỷ lệ: 54,05%, đạt chuẩn mức độ 3; 43/111 xã, phường, thị trấn, tỷ lệ 38,73% (toàn tỉnh đạt chuẩn phổ giáo dục trung học cơ sở mức 1 và đang phấn đấu công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở mức độ 2). Có 27/111 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia trung học phổ thông, tỷ lệ 24,32%9.
Việc thực hiện các chỉ tiêu về giáo dục dân tộc đa số đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, các chính sách hỗ trợ trẻ em, học sinh, sinh viên tại các trường ở khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, ngày 18/07/2016 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn, Nghị định số 57/2017/NĐ-CP, ngày 09/5/2017 của Chính phủ về quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người, Nghị định số 105/2020/NĐ-CP, ngày 08/9/2020 của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non và Nghị quyết số 17/2020/NQ-HĐND, ngày 27/10/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Phước ban hành chính sách hỗ trợ học sinh người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm học 2020 - 2021 đến năm học 2024 - 2025 được triển khai thực hiện đầy đủ theo đúng quy định. Về dạy tiếng dân tộc thiểu số: Năm học 2022 - 2023 chỉ có Trường Phổ thông Dân tộc nội trú trung học cơ sở Lộc Ninh hợp đồng dạy tiếng Khmer cho học sinh từ khối 6 đến khối 8 thời lượng 1 tiết/tuần/lớp theo hình thức ngoại khóa; các trường phổ thông dân tộc nội trú còn lại chủ yếu dạy ngôn ngữ giao tiếp trong sinh hoạt đời sống hàng ngày nhằm tạo điều kiện cho các em hòa nhập, trao đổi trong học tập.
2.2. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Bình Phước vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn như:
Một là, kết quả giảm nghèo trong vùng dân tộc thiểu số hằng năm có giảm nhưng chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo cao; việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất còn hạn chế nên năng suất và chất lượng nông sản thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao. Số đồng bào dân tộc thiểu số được giải quyết việc làm chủ yếu thông qua các chương trình, dự án, nguồn vốn vay giải quyết việc làm, mặt khác, còn hạn chế trong tự tạo việc làm, lao động tại các trang trại trong và ngoài tỉnh, cũng như đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng.
Hai là, mô hình dạy nghề cho lao động dân tộc thiểu số ở nông thôn còn ít, chủ yếu là các nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp có thời gian đào tạo ngắn, dễ học và dễ làm; chưa tổ chức đào tạo các nghề mang tính dịch vụ, kỹ thuật chất lượng cao nên chưa đáp ứng lao động có tay nghề phục vụ cho trong các khu công nghiệp và đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; người dân tộc thiểu số còn hạn chế về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thêm vào đó, một số thị trường xuất khẩu lao động có chi phí cao cũng là rào cản lớn, khiến số lượng người dân tộc thiểu số tham gia còn ít.
Ba là, hiện nay diện tích đất sản xuất của hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn nằm trong phần diện tích đất lâm phần và diện tích đất quy hoạch quặng dự trữ Bô-xít trên địa bàn tỉnh chiếm diện tích khá lớn. Đây cũng là một thách thức lớn cho các địa phương trong việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án, chính sách dân tộc dẫn đến việc giải ngân nguồn vốn đã phân bổ cho các địa phương chưa đạt theo kế hoạch hằng năm.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Phước trong thời gian tới
Những năm qua, tỉnh đã tập trung nguồn lực để hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, ban hành nhiều chính sách, chương trình, dự án ưu tiên đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số, góp phần xóa đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, các địa phương trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, các mặt đời sống của bà con dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn nhất định, đa số sinh sống trên địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội còn chậm phát triển, kết cấu hạ tầng thấp kém, chất lượng giáo dục còn thấp, chăm sóc sức khoẻ còn nhiều khó khăn, hưởng thụ văn hoá còn hạn chế. Một bộ phận hộ dân tộc thiểu số đời sống rất khó khăn, thiếu tư liệu sản xuất, trình độ canh tác lạc hậu, việc tính toán tích lũy tái đầu tư chưa tốt, thu nhập chủ yếu từ đi làm thuê, trình độ dân trí còn thấp, nhất là người nghèo nhận thức về cuộc sống, về xã hội còn đơn giản, kế hoạch chi tiêu chưa khoa học nên không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống như: ăn, ở, học hành, chữa bệnh; những phong tục tập quán lạc hậu gây tốn kém còn tồn tại, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Để khắc phục những hạn chế, cần triển khai một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, hỗ trợ phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, giảm nghèo.
Ngành chức năng của tỉnh cần triển khai hiệu quả, đồng bộ và kịp thời các chính sách hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là đào tạo theo đơn đặt hàng từ các tổ chức, cá nhân sử dụng lao động. Cần nâng cao chất lượng hoạt động của Trường Cao đẳng nghề Bình Phước và sắp xếp lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp để nâng cao hiệu quả đào tạo trên toàn tỉnh.
Các cấp, ngành cần tổ chức thực hiện tốt các cơ chế, chính sách giảm nghèo bền vững theo chuẩn nghèo đa chiều; chú trọng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; quan tâm giải quyết nhà ở cho người dân, đặc biệt là các hộ dân tộc thiểu số có thu nhập thấp; thực hiện đầy đủ các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước.
Tỉnh cần tập trung chỉ đạo, lồng ghép và huy động hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc, gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Chính sách cần được triển khai kịp thời đến hộ nghèo dân tộc để hỗ trợ về đất ở, học nghề, vay vốn phát triển sản xuất, khôi phục và phát triển nghề truyền thống, đầu tư công trình thủy lợi vùng cao, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp. Đồng thời, cần tăng cường hỗ trợ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, từng bước nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Song song đó, cần tăng cường tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và ngăn ngừa tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh phối hợp giữa các sở, ban, ngành theo các chương trình đã ký kết, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn.
Hai là, hỗ trợ tiếp cận giáo dục.
Phát triển mạng lưới trường lớp theo quy hoạch, trong đó ưu tiên hệ thống cơ sở trường, lớp bậc phổ thông đạt chuẩn quốc gia và trong lộ trình xây dựng “Nông thôn mới”, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học. Triển khai và thực hiện có hiệu quả đổi mới chương trình và sách giáo khoa, đồng thời huy động nhiều nguồn lực đầu tư phát triển mạng lưới trường mầm non. Đổi mới công tác tuyển sinh đầu cấp, đẩy mạnh phân luồng, hướng nghiệp học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông.
Tăng cường công tác kiểm định chất lượng giáo dục tại các cơ sở trường học; quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; quan tâm giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, ngoại ngữ, tin học… Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, lành mạnh; hạn chế những tiêu cực trong công tác dạy và học. Tổ chức thực hiện đồng loạt các giải pháp nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng học sinh bỏ học, nhất là học sinh thuộc các đối tượng yếu thế trong đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện nghiêm việc “nói không với tiêu cực trong thi cử, không vi phạm đạo đức nhà giáo, không xảy ra bệnh thành tích trong giáo dục và không để tình trạng học sinh ngồi sai lớp”. Không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt là chú ý những chính sách đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao trách nhiệm điều hành, quản lý ngân sách của các đơn vị trường học; đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục và đào tạo; khuyến khích phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập.
Ba là, tăng cường công tác phối hợp giữa các tổ chức chính trị - xã hội
Để chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện một cách hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa các cơ quan, ban, ngành, mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh đến cơ sở, trong tất cả các khâu của quá trình thực hiện chính sách từ công tác tuyên truyền, phổ biến đến công tác triển khai tổ chức thực hiện, công tác vận động đến công tác giám sát thực hiện chính sách. Kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh cho thấy, nếu công tác phối hợp được các cơ quan thực hiện chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất thì việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và mang lại kết quả cao.
1. “Tình hình dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Phước”, ngày 23/12/2021, https://binhphuoc.gov.vn.
2, 7, 8, 9. Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước: Báo cáo số 250/BC-UBND, ngày 25/12/2024 về kết quả thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Phước năm 2024, phương hướng nhiệm vụ năm 2025.
3, 4, 6. Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước: Báo cáo số 229/BC-UBND, ngày 07/10/2024 về Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới.
5. Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước: Báo cáo tình hình triển khai, thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2023, tầm nhìn đến năm 2045, năm 2024.