1. Triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục
Theo Hồ Chí Minh, sứ mệnh của nền giáo dục mới ở Việt Nam phải khắc phục sự lạc hậu do chính sách của chế độ thực dân và làm cho mọi người dân được hưởng nền giáo dục của một nước độc lập. Thấu hiểu thân phận của một người dân ở một nước thuộc địa, lệ thuộc dưới ách cai trị vô cùng hà khắc, tàn bạo của thực dân Pháp bằng chính sách ngu dân và chia để trị; những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, được trải nghiệm cuộc sống ở nước Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước khác, Nguyễn Ái Quốc hết sức căm phẫn và không ngừng tố cáo, lên án, chống lại tội ác của chủ nghĩa thực dân, nhất là chống chính sách ngu dân. Khi trả lời một phóng viên Báo Yi Chê Pao xuất bản ở Thiên Tân, Trung Quốc, ngày 20/9/1919, Nguyễn Ái Quốc nói: “Bằng cách cản trở văn minh và tiến bộ của dân tộc An Nam, người Pháp vĩnh viễn đặt dân tộc này ra ngoài lề của nền văn minh thế giới”1.
Tinh thần chống chính sách ngu dân của Nguyễn Ái Quốc còn được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do chính Người khởi thảo: “Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”2. Điều này khẳng định sự nhất quán của Người trong chống chính sách ngu dân và hướng đến nền giáo dục mới đem lại cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi kiếp nô lệ.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến xây dựng một nền giáo dục của một nước độc lập. Ngay trong lá thư đầu tiên gửi cho các em học sinh nhân ngày khai giảng năm học mới, Người đã viết: “các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập”3. Quan điểm này của Hồ Chí Minh khẳng định nền giáo dục cách mạng chỉ được thực hiện khi nước nhà được độc lập, và khi nước nhà giành được độc lập thì cần hướng tới xây dựng nền giáo dục của một nước độc lập, tiến bộ.
Người luôn đánh giá cao vai trò của giáo dục trong mở mang dân trí, vì vậy, sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ cấp bách thứ hai được Người nhấn mạnh: “Vấn đề thứ hai, nạn dốt - Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”4.
Luận điểm “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phản ánh rõ quan điểm về tầm quan trọng của giáo dục và là một triết lý có tính khái quát toàn bộ các giá trị tinh hoa của nhân loại về vai trò giáo dục. Theo Người, dốt ở đây không chỉ đơn thuần là việc không biết chữ, mà nó phản ánh trình độ dân trí. Trình độ dân trí không chỉ dừng lại ở biết đọc, biết viết, mà còn phải có trình độ hiểu biết, phản ánh trí tuệ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong bài “Chống nạn thất học”, ngày 04/10/1945, Người đã viết: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”5. Thực hiện chỉ đạo chống “giặc dốt” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nâng cao dân trí, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Nha bình dân học vụ, mở các lớp học buổi tối, bắt buộc học chữ quốc ngữ. Quyết tâm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã được hiện thực hóa và trở thành phong trào “Bình dân học vụ”, thu được nhiều kết quả trong việc xóa mù chữ, góp phần nâng cao dân trí.
2. Giá trị và định hướng vận dụng triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục trong kỷ nguyên phát triển mới ở Việt Nam
Các quan điểm của Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục đã được hiện thực hóa trong nền giáo dục cách mạng Việt Nam, tạo ra sự thay đổi từ nhận thức đến hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục, góp phần "hồi sinh" một dân tộc vốn là thuộc địa của thực dân Pháp với trên 90% dân số mù chữ. Thực hiện sứ mệnh giáo dục để "diệt giặc dốt" theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào "Bình dân học vụ" đã phát triển sôi nổi, rộng khắp và đạt được thành công vang dội, góp phần xóa mù chữ, qua đó đem đến cuộc sống văn minh hơn cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Thành công đó cũng chính là một trong những động lực quan trọng của công cuộc kháng chiến, kiến quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đề cập đến những ý tưởng kiệt xuất của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, trong dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh của Người (1890 - 2010), Phó Tổng Giám đốc UNESCO Hans D'orville cho rằng: "Hồ Chí Minh đã đóng góp rất nhiều vào sự nghiệp giáo dục cho tất cả mọi người… vị cha già giải phóng Việt Nam đã từng là thầy giáo và sự nghiệp giải phóng dân tộc đối với người chính là “cuộc đấu tranh chống lại ba kẻ thù: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm""6.
Trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục vẫn vẹn nguyên tính thời sự, định hướng cho sự phát triển bền vững không chỉ của dân tộc Việt Nam, mà cả các quốc gia, dân tộc khác trên toàn thế giới. Bởi những quan điểm mang tính triết lý đó của Người về giáo dục nói chung và sứ mệnh giáo dục nói riêng, gắn với mục tiêu phát triển toàn diện con người, đã được đề cập từ giữa thế kỷ XX, giờ đây đã trở thành bốn trụ cột của giáo dục mà UNESCO xác định trong thông điệp “Học tập - một kho báu tiềm ẩn”. Qua đó, cho thấy tầm nhìn và tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh về giáo dục.
Như vậy, triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục hoàn toàn phù hợp với tôn chỉ của UNESCO, là thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục toàn dân và truyền bá văn hóa. Điều này được GS Song Thành nhấn mạnh: “Đây là một kho báu, cần khai thác, vận dụng quán triệt trên con đường tìm kiếm một triết lý giáo dục hiện đại, tiếp thu tinh hoa thế giới, phù hợp với truyền thống dân tộc, với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay”7.
Trong những năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tích cực thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, hoạt động giáo dục và đào tạo có những chuyển biến mạnh mẽ, khá toàn diện, góp phần mở mang dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo vẫn còn những hạn chế, chưa bảo đảm vai trò “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “hoạt động giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo”8.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một triết lý giáo dục làm nền tảng để định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục chính là chỉ dẫn căn cốt, định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới. Vì vậy, dưới ánh sáng của triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục, cần tập trung vào một số định hướng cơ bản sau:
Một là, nghiên cứu, phát huy vai trò nền tảng tư tưởng của triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục.
Đây là định hướng đầu tiên, mang tính cơ bản để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay. Theo đó, cần nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhất là ngành giáo dục và đào tạo, về nội dung, giá trị các quan điểm mang tính căn cốt của Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục, để chấn hưng nền giáo dục nước nhà; làm cho các quan điểm hợp thành triết lý Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và sứ mệnh giáo dục nói riêng thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay đạt hiệu quả, chất lượng; bảo đảm giáo dục và đào tạo thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc theo di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hai là, thực hiện hiệu quả sứ mệnh giáo dục trong toàn bộ quy trình giáo dục và đào tạo.
Đây là định hướng quan trọng trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay. Bởi nếu không phát huy sứ mệnh giáo dục thì tất yếu hiệu quả giáo dục và đào tạo sẽ chuyển biến chậm, thậm chí thụt lùi. Do đó, toàn bộ, các khâu, các bước của quy trình giáo dục và đào tạo đều phải thấm nhuần quan điểm Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục, để không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, thực sự là lớp người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa, những con người “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản lĩnh chính trị, năng lực làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại, đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có hoài bão, khát vọng cống hiến cho đất nước; những công dân hữu ích cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ba là, xác định rõ sứ mệnh giáo dục trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Giáo dục không chỉ là quá trình truyền đạt tri thức, mà phải được xác định là quá trình hình thành con người toàn diện: phát triển trí tuệ, đạo đức, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng sống và tinh thần công dân tích cực. Do đó, từ triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục, cần chuyển mạnh từ "dạy những gì có sẵn" sang "hướng dẫn cách học, cách suy nghĩ, cách làm người và làm việc". Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ với nhiều đột phá có tính bước ngoặt trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, giáo dục không chỉ phục vụ phát triển kinh tế, mà còn là công cụ quyết định vị thế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường nội lực đất nước và sức mạnh mềm quốc gia. Theo đó, cần phát triển triết lý giáo dục Việt Nam hiện đại dựa trên cốt lõi triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục, bảo đảm tính nhân bản, dân tộc, khai phóng, thực tiễn và hội nhập quốc tế.
Bốn là, tăng cường chuyển đổi số trong giáo dục.
Chuyển đổi số không chỉ là phương tiện kỹ thuật, mà phải trở thành một mô hình giáo dục mới, tạo ra môi trường học tập mở, linh hoạt, cá nhân hóa và liên tục. Từ nội dung, giá trị của triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục, cần tập trung phát triển hệ sinh thái giáo dục số: trường học thông minh, nền tảng học tập mở (MOOCs), thư viện số, "bình dân học vụ số", trí tuệ nhân tạo hỗ trợ đánh giá và phân tích học tập, hệ thống dữ liệu học tập suốt đời; nâng cao năng lực chuyển đổi số cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, giúp họ trở thành "người dẫn dắt số" thay vì chỉ là người sử dụng công nghệ. Đồng thời, cần có chính sách đặc thù cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo để không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình số hóa giáo dục, bảo đảm công bằng trong tiếp cận tri thức số. Qua đó, nâng cao chất lượng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, cũng như tạo cơ hội để người dân nâng cao dân trí.
Năm là, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển giáo dục bền vững.
Xây dựng và hoàn thiện các khung chính sách phát triển giáo dục gắn với mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), cụ thể là SDG số 4 về "bảo đảm nền giáo dục chất lượng, công bằng và toàn diện". Do đó, trên cơ sở Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Nhà giáo được sửa đổi, ban hành và các văn bản dưới luật, trao quyền tự chủ thực chất cho các cơ sở giáo dục, đồng thời có cơ chế kiểm tra, đánh giá hiệu quả minh bạch, công bằng, khách quan chất lượng giáo dục. Đồng thời, tăng cường liên thông chính sách giữa các cấp học, bậc học để bảo đảm tính xuyên suốt và phát triển năng lực người học theo từng giai đoạn. Bên cạnh đó, phân cấp và phân quyền rõ ràng giữa Trung ương - địa phương - cơ sở giáo dục để tránh sự chồng chéo, giảm hành chính hóa, tăng cường tính chủ động, sáng tạo của từng cấp.
Mặt khác, cần nghiên cứu tăng đầu tư ngân sách và khuyến khích xã hội hóa giáo dục. Theo đó, cần bảo đảm tính thực chất, hiệu quả của việc dành tối thiểu 20% ngân sách cho giáo dục, tập trung đầu tư vào hạ tầng số, giáo dục mầm non, phổ thông vùng khó khăn và phát triển nhân lực chất lượng cao. Cần chuyển hướng đầu tư từ số lượng sang chất lượng: từ xây trường lớp đơn thuần sang đầu tư vào chương trình, công nghệ, con người và mô hình quản trị giáo dục hiện đại. Xây dựng cơ chế pháp lý minh bạch, ổn định và hấp dẫn nhằm khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức phi lợi nhuận, cộng đồng người Việt ở nước ngoài… tham gia đầu tư phát triển giáo dục ở các cấp học.
Tóm lại, triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục thực sự khoa học, cách mạng, trên cơ sở kết hợp các giá trị tinh hoa của triết lý giáo dục cổ kim Đông Tây trên nền tảng lý luận Mác - Lênin về giáo dục. Triết lý Hồ Chí Minh về sứ mệnh giáo dục có giá trị to lớn trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, góp phần trực tiếp xây dựng nền giáo dục cách mạng Việt Nam, phục vụ kháng chiến, kiến quốc, bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Triết lý về sứ mệnh giáo dục của Người trở thành cơ sở phương pháp luận, định hướng và gợi mở cho đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục ở nước ta trong kỷ nguyên phát triển mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, và thực hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 457.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 1.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 34.
4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 7.
6. Hans D’Orville: “Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ giá trị thời đại”, WWW.vietnam+/VietnamPlus.
7. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/967-triet-ly-giao-duc-ho-chi-minh.html.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 82.