Vùng Đông Nam Bộ từ lâu đã khẳng định vị thế là trung tâm kinh tế năng động và phát triển bậc nhất cả nước, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Tuy nhiên, trước những yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, ngành công nghiệp của vùng đang đối mặt với không ít thách thức. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 07/10/2022, của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đặt ra những định hướng quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, đổi mới sáng tạo, gắn với bảo vệ môi trường và phát triển xanh. Việc triển khai hiệu quả các nội dung của Nghị quyết số 24-NQ/TW sẽ tạo động lực mạnh mẽ, góp phần để ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ tiếp tục giữ vững vai trò “đầu tàu”, dẫn dắt sự phát triển chung của kinh tế đất nước.
1. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ thời gian qua
Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005, của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu: “Huy động cao nhất các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng để phát triển nhanh, ổn định và bền vững, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao…; góp phần tích cực vào sự phát triển chung của khu vực phía Nam và cả nước, là địa bàn cầu nối để hội nhập, hợp tác kinh tế có hiệu quả với các nước trong khu vực”1. Sau 5 năm triển khai, vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã đạt được những bước phát triển quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng2. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Kết luận số 27-KL/TW, ngày 02/8/2012, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005, của Bộ Chính trị khóa IX đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020 với mục tiêu: “Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tạo chuyển biến rõ rệt về chất, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả các ngành kinh tế, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đóng góp hiệu quả vào quá trình tái cấu trúc của nền kinh tế”3.
Sau 10 năm thực hiện Kết luận số 27-KL/TW, nền kinh tế vùng Đông Nam Bộ đã có những chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong ngành công nghiệp. Vùng tiếp tục giữ vai trò đầu tàu khi đóng góp lớn nhất vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng của cả nước với quy mô ngày càng mở rộng. Năm 2023, quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của vùng đóng góp lớn nhất vào GDP cả nước, chiếm 30,2%; GRDP bình quân đầu người đạt 166 triệu đồng; thu ngân sách nhà nước là 675 nghìn tỷ đồng; thu hút đầu tư nước ngoài có 4/6 địa phương trong vùng thuộc nhóm dẫn đầu cả nước, bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu4. Cơ cấu ngành công nghiệp có sự dịch chuyển theo hướng gia tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo, đồng thời giảm dần công nghiệp khai khoáng. Bên cạnh đó, vùng đang chuyển dịch từ các ngành thâm dụng lao động như “dệt may, da giày” sang các ngành công nghiệp công nghệ cao và sản phẩm có giá trị gia tăng cao như: công nghiệp điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin và cơ khí chế tạo. Xu hướng này không chỉ nâng cao năng suất và sức cạnh tranh mà còn giúp ngành công nghiệp vùng hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2024, quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của vùng Đông Nam Bộ ước đạt 3.565,94 nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng GRDP khoảng 6,38%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước (ước đạt 6,8 - 7%) và đứng thứ 4 trong số 6 vùng kinh tế của cả nước, trong đó, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 45-46% GRDP, đặc biệt, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm khoảng 33%5.
Vùng Đông Nam Bộ tiếp tục dẫn đầu cả nước về số dự án và tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến ngày 31/10/2024, toàn vùng thu hút được 21.174 dự án với tổng số vốn là 189,011 tỷ USD; trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu cả nước, chiếm 32,2% số dự án và gần 12% tổng số vốn đăng ký; số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động lớn nhất trong 6 vùng kinh tế, ước tăng 9,8% so cùng kỳ...6.
Tứ giác kinh tế của vùng gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, góp phần gia tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, giúp các doanh nghiệp có thể tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Một số ngành công nghiệp chủ lực như khai thác dầu khí, sản xuất điện, phân bón, hóa chất, dược phẩm, thiết bị thông tin, điện tử, cơ khí chế tạo, công nghiệp, nguyên, vật liệu xây dựng… đã có nhiều đóng góp vào tăng trưởng kinh tế toàn vùng; tạo việc làm, góp phần giải quyết tình trạng dư thừa lao động trên địa bàn và các vùng lân cận. Năm 2024, GRDP công nghiệp của các địa phương này chiếm đến 85% tổng GRDP khu vực công nghiệp của vùng. Nổi bật là, ngành công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương đóng góp vào tỷ trọng vùng Đông Nam Bộ lần lượt là 47,11% và 13,78%7.
Chất lượng tăng trưởng chuyển biến theo hướng tích cực, cơ cấu ngành, sản phẩm công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm dần tỷ trọng ngành công nghiệp khai khoáng; dịch chuyển dần từ các ngành thâm dụng lao động sang các ngành ít thâm dụng lao động, có giá trị gia tăng cao. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển khá, tốc độ tăng trưởng đạt bình quân 8,4%/năm giai đoạn 2016 - 2020 và khoảng 9,8% trong năm 2022. Giá trị gia tăng của công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm trong tổng giá trị gia tăng của công nghiệp vùng được nâng lên, từ 54,4% năm 2011 lên 81,1% năm 2020 và khoảng 77,7% năm 2022. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu GDRP vùng tăng từ 24% năm 2011 lên 27,6% năm 2015, 30,3% năm 2020 và 33% năm 2024. Các sản phẩm của công nghiệp chế biến, chế tạo phần lớn hướng vào xuất khẩu với một số mặt hàng chiếm giá trị kim ngạch lớn: hàng dệt may, giầy dép, linh kiện, thiết bị điện, điện tử, máy gia dụng, thực phẩm chế biến, hóa chất, sản phẩm gỗ... đi các thị trường như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc... Đến tháng 6/2024, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của các địa phương trong vùng đạt 115,7 tỷ USD, chiếm 31% kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh duy trì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cao nhất cả nước, đạt gần 44 tỷ USD8, tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai đều ghi nhận kim ngạch xuất nhập khẩu cao với lần lượt là gần 27,8 tỷ USD9 và 19,61 tỷ USD10. Các sản phẩm xuất khẩu như dệt may, điện tử và linh kiện, giày dép... đã chiếm lĩnh thị trường thế giới và khẳng định năng lực cạnh tranh ngày càng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, vị thế trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước của vùng Đông Nam Bộ có dấu hiệu giảm sút. Giai đoạn 2021 - 2022, kinh tế vùng Đông Nam Bộ chỉ tăng trưởng 2,61%/năm. Tính chung giai đoạn 2011 - 2022, kinh tế của vùng tăng trưởng 5,50%/năm, thấp hơn so trung bình cả nước là 6,05%/năm và thấp nhất trong 6 vùng kinh tế của cả nước. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng trưởng 4,6%/năm, thấp hơn nhiều so với trung bình cả nước, đạt 7,0%/năm; đóng góp cho tăng trưởng của khu vực công nghiệp - xây dựng giảm từ 41,0% giai đoạn 2011 - 2015 xuống 33,8% giai đoạn 2016 - 2020 và 31,0% giai đoạn 2021 - 2022. Tính chung giai đoạn 2011 - 2022, khu vực này đóng góp 36,7%, tương đương 2,02%. Khu vực công nghiệp - xây dựng của Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đóng góp 10,6%, tương đương 0,59% vào tăng trưởng chung của vùng Đông Nam Bộ11. Năm 2024, tốc độ phát triển GRDP vùng Đông Nam Bộ ước đạt 6,38%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước là 7,09%, đứng thứ 4/6 vùng kinh tế. Hạn chế trong phát triển ngành công nghiệp của vùng Đông Nam Bộ thời gian qua xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản như:
Thứ nhất, hiện nay, toàn vùng có hơn 86 khu công nghiệp với khoảng 51 nghìn doanh nghiệp công nghiệp hoạt động trên địa bàn, chiếm 35% tổng số doanh nghiệp công nghiệp trong cả nước. Trong đó, có hơn 48 nghìn doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo, chiếm 94,1% tổng số doanh nghiệp công nghiệp, còn lại là các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp khai khoáng, sản xuất, phân phối điện, khí đốt, cấp nước12. Dẫn đầu cả nước về số lượng khu công nghiệp nhưng đa phần là công nghiệp gia công lắp ráp để xuất khẩu, giá trị gia tăng mang lại thấp, phụ thuộc nhập khẩu đầu vào, chu trình sản xuất không khép kín, hệ quả là rủi ro cao với biến động của nhu cầu thế giới và các “cú sốc” như biến động địa chính trị, dịch bệnh, “đứt gãy” nguồn cung... Đặc biệt, dựa trên lợi thế so sánh, các địa phương trong vùng đều chú trọng đẩy mạnh phát triển công nghiệp, nhưng nhìn chung, hầu như các địa phương đều đầu tư hạ tầng giao thông phục vụ công nghiệp theo hướng phát triển trong nội bộ từng tỉnh, thành phố, chưa chú trọng phát triển mạng lưới giao thông liên kết vùng, kết nối các tỉnh - thành trong vùng…13.
Thứ hai, giá trị gia tăng các sản phẩm công nghiệp của vùng chưa cao, sản xuất công nghiệp không có thêm nhiều sản phẩm mới với hàm lượng kỹ thuật cao để tiếp tục tạo động lực cho tăng trưởng của vùng. Sản phẩm chủ lực của vùng chủ yếu là may mặc, giày dép, thức ăn gia súc, bột giặt… với tỷ lệ gia công nhiều. Nhìn chung, các sản phẩm cao cấp, công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, như: bản vi mạch điện tử, điện thoại di động, ô-tô, dược phẩm, phần mềm… vẫn chiếm tỷ lệ thấp so với vùng đồng bằng sông Hồng. Tiềm năng, lợi thế của từng địa phương trong vùng chưa được khai thác triệt để. Hợp tác và liên kết nội, ngoại vùng chưa chặt chẽ từ khâu quy hoạch đến thu hút đầu tư và phân bổ nguồn lực, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, gây mất cân đối cung - cầu, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm…
Thứ ba, tăng trưởng công nghiệp và kinh tế của vùng vẫn dựa chủ yếu vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quá trình nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại mới chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mối liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp nội địa còn hạn chế.
Thứ tư, nguyên, phụ liệu đầu vào cho sản xuất một số ngành hàng xuất khẩu chủ yếu là nhập khẩu. Do đó khi giá cả, chính sách biến động sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu; hạ tầng phục vụ cho dịch vụ xuất khẩu còn yếu và thiếu đồng bộ, như: dịch vụ logistics, kho tàng, bến cảng… làm tăng chi phí, giá thành xuất khẩu, giảm tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
2. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ theo tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị trong thời gian tới
Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22/3/2018, của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định “hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu” vào năm 2030, “trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại” vào năm 2045. Đặc biệt, Nghị quyết số 24-NQ/TW đã xác định một trong các quan điểm phát triển là: “Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ chất lượng cao” và mục tiêu đến năm 2030, tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 45,3% GRDP của vùng, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 33%. Để từng bước hiện thực hóa các mục tiêu đặt ra, thời gian tới, ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ cần cơ cấu lại theo chiều sâu để tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong quá trình đó, các địa phương trong vùng cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, thúc đẩy liên kết vùng và chuyển đổi mô hình tăng trưởng hợp lý. Để phát triển công nghiệp vùng Đông Nam Bộ một cách hiệu quả, cần đẩy mạnh liên kết giữa các địa phương, xây dựng mô hình tăng trưởng phù hợp nhằm phân bổ nguồn lực hợp lý. Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu công nghiệp cần dựa trên tiềm năng và lợi thế riêng của từng tỉnh, tránh áp dụng rập khuôn gây áp lực không cần thiết. Đặc biệt, cần tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp trọng điểm như cơ khí chế tạo, hóa dầu, hóa chất và các sản phẩm từ dầu. Đồng thời, ưu tiên đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn và công nghệ cao như điện tử - viễn thông, công nghiệp sản xuất rô-bốt, thiết bị tự động hóa, công nghiệp số, công nghiệp vật liệu mới và công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, việc phát triển công nghiệp xanh, sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ thân thiện với môi trường cũng cần được chú trọng để nâng cao sức cạnh tranh bền vững.
Hai là, kết nối khu công nghiệp, phát triển chuỗi giá trị và thu hút đầu tư công nghệ cao. Việc tăng cường kết nối giữa các khu công nghiệp, khu chế xuất trong vùng là yếu tố quan trọng để hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Cần tập trung thu hút các dự án quy mô lớn, ứng dụng công nghệ tiên tiến, giúp doanh nghiệp trong nước tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời, cần phát triển các khu công nghiệp - dịch vụ - đô thị hiện đại, tích hợp khu công nghệ cao với trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), nhằm tạo ra một hệ sinh thái công nghiệp sáng tạo. Đặc biệt, việc xây dựng vùng động lực công nghiệp công nghệ thông tin tại vùng sẽ giúp thu hút đầu tư vào các lĩnh vực như IoT, trí tuệ nhân tạo (AI) và tự động hóa thông minh. Ngoài ra, cần đẩy mạnh phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo trong khu công nghiệp, khuyến khích sự hợp tác giữa doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu để nâng cao năng lực đổi mới công nghệ.
Ba là, xây dựng hệ thống logistics hiện đại và kết nối liên vùng. Hệ thống logistics là yếu tố then chốt giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của công nghiệp vùng Đông Nam Bộ. Cần phát triển đồng bộ hệ thống logistics cấp quốc gia và quốc tế, gắn kết với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế và các hành lang kinh tế trọng điểm. Đặc biệt, việc xây dựng trung tâm logistics hàng không tại sân bay quốc tế Long Thành và đầu tư phát triển cảng trung chuyển quốc tế sẽ giúp nâng cao năng lực vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra, cần phát triển hệ thống giao thông liên vùng theo hướng bền vững, khuyến khích sử dụng phương tiện vận tải xanh như xe điện, đường sắt đô thị để giảm tác động môi trường. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) vào các trung tâm logistics thông minh cũng sẽ giúp tối ưu hóa chuỗi cung ứng, giảm chi phí vận hành và tăng hiệu quả kết nối.
Bốn là, thu hút đầu tư chiến lược và định hướng phát triển công nghiệp bền vững. Thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn và các doanh nghiệp xuyên quốc gia có năng lực công nghệ cao là giải pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của ngành công nghiệp trong vùng. Cần tập trung vào các ngành công nghiệp dẫn dắt như phần mềm, điện tử công nghiệp, điện tử tiêu dùng và cơ khí chính xác. Đồng thời, việc đầu tư vào hạ tầng khu chế xuất, khu công nghiệp theo quy hoạch, kết hợp phát triển các khu dân cư đi kèm sẽ giúp bảo đảm điều kiện sống và làm việc cho lực lượng lao động. Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính và cải cách thủ tục hành chính để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút doanh nghiệp nước ngoài. Song song với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cần có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để giúp họ tham gia vào chuỗi cung ứng công nghiệp. Ngoài ra, cần hạn chế mở rộng các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, tiêu tốn tài nguyên và có giá trị gia tăng thấp tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, hướng đến phát triển công nghiệp xanh và công nghệ cao nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững.
Tóm lại, với vai trò là vùng kinh tế trọng điểm và trung tâm công nghiệp hàng đầu cả nước, Đông Nam Bộ trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển công nghiệp. Bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đặc biệt với định hướng từ Nghị quyết số 24-NQ/TW, yêu cầu đặt ra là vùng cần cơ cấu lại ngành công nghiệp theo chiều sâu, lấy đổi mới sáng tạo, công nghệ cao và phát triển bền vững làm trọng tâm. Sự chuyển dịch mô hình tăng trưởng sang kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là tất yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Việc thúc đẩy liên kết vùng, xây dựng hệ thống logistics hiện đại, thu hút đầu tư chiến lược, phát triển công nghiệp hỗ trợ, và hình thành các trung tâm công nghiệp công nghệ cao sẽ là nền tảng để vùng Đông Nam Bộ giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế - công nghiệp của cả nước.
Phát triển ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ không chỉ là nhiệm vụ trọng tâm của từng địa phương, mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và toàn vùng, giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với định hướng phát triển rõ ràng, cùng các giải pháp đồng bộ, ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ hoàn toàn có thể bứt phá mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại vào năm 2045.
1. Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
2. Báo cáo số 1042-BC/BCSĐCP, ngày 19/8/2022 của Ban Cán sự Đảng Chính phủ tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW.
3. Kết luận số 27-KL/TW, ngày 02/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020.
4. Hoàng Mẫn: “Nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ cao hơn mức trung bình của cả nước”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 05/5/2024, https://dangcongsan.vn/thoi-su/nhieu-chi-tieu-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-nam-bo-cao-hon-muc-trung-binh-cua-ca-nuoc-664418.html.
5. Văn Quân: “Đông Nam Bộ dẫn đầu cả nước về thu nhập bình quân đầu người”, Báo điện tử Tuổi trẻ Thủ đô, ngày 02/12/2024, http://tuoitrethudo.vn/dong-nam-bo-dan-dau-ca-nuoc-ve-thu-nhap-binh-quan-dau-nguoi-266678.html.
6. Xem: Phạm Tiếp: “Thủ tướng: Đông Nam Bộ phấn đấu tăng trưởng 2 con số, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới”, Báo Tin tức, ngày 02/12/2024, https://baotintuc.vn/thoi-su/thu-tuong-dong-nam-bo-phan-dau-tang-truong-2-con-so-cung-ca-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-20241202184652549.htm.
7. Xem: Ngọc Tuấn: “Đông Nam Bộ: Động lực tăng trưởng từ các dự án trọng điểm”, Báo Đấu thầu, ngày 15/01/2025, https://baodauthau.vn/dong-nam-bo-dong-luc-tang-truong-tu-cac-du-an-trong-diem-post172824.html.
8. Xem: Thái Bình: “Địa phương đầu tiên đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 20 tỷ USD”, Tạp chí Hải quan điện tử, ngày 18/7/2024, https://haiquanonline.com.vn/dia-phuong-dau-tien-dat-kim-ngach-xuat-khau-hon-20-ty-usd-188046.html
9. Đoan Trang: “Bình Dương: Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục khởi sắc”, Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương, ngày 22/7/2024, https://www.binhduong.gov.vn/tin-tuc/2024/07/272-binh-duong-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-6-thang-dau-nam-2024-tiep-tuc-khoi-sac.
10. Văn Dũng: “Đồng Nai: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024 đạt hơn 11 tỷ USD”, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, ngày 30/7/2024, https://daibieunhandan.vn/dong-nai-kim-ngach-xuat-khau-6-thang-dau-nam-2024-dat-hon-11-ty-usd-post382540.html
11. Xem: Báo cáo số 1042-BC/BCSĐCP, ngày 19/8/2022 của Ban Cán sự Đảng Chính phủ tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL, ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW.
12. Nguyễn Cao Siêng: “Cơ cấu lại ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ theo tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22/4/2024, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/915802/co-cau-lai-nganh-cong-nghiep-vung-%C4%91ong-nam-bo-theo-tinh-than-nghi-quyet-so-24-nq-tw-cua-bo-chinh-tri.aspx
13. Thu Hường: “Phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ: Gỡ “nút thắt” hạ tầng giao thôn”, Tạp chí Con số và Sự kiện, ngày 13/12/2022, https://consosukien.vn/phat-trien-kinh-te-vung-dong-nam-bo-go-nut-that-ha-tang-giao-thong.htm