Giải pháp xây dựng nền công nghiệp văn hoá Việt Nam hội nhập và phát triển

CT&PT - Tiềm năng và lợi thế của ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam rất lớn, nên việc phát triển và khai thác tốt công nghiệp văn hóa có thể mang lại những đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân.

1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về phát triển công nghiệp văn hóa

Sự nghiệp đổi mới được Đảng ta khởi xướng và tiến hành từ năm 1986 đến nay đã trải qua gần 40 năm. Thế và lực của đất nước đã có những thay đổi vượt bậc, mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam trở thành một nước phát triển và có thu nhập cao. Quá trình đổi mới trước hết là đổi mới nhận thức về mục tiêu, đặc trưng và con đường đi lên của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã dần dần được bổ sung, phát triển và kết tinh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm 2011). Quá trình đổi mới nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường ngày càng được quan tâm.

Trên lĩnh vực văn hóa, Đảng đã nhấn mạnh đến vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước nói chung và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Năm 1998, khi ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII: "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Đảng ta đã xác định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"1. Đảng ta cũng đã khẳng định văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... "biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển"2. Trong Nghị quyết này, Đảng ta cũng xác định cần phải xây dựng, ban hành các chính sách để tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế, xác định yêu cầu xây dựng chính sách kinh tế trong văn hóa; chính sách văn hóa trong kinh tế, chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa v.v... Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 cho thấy, chúng ta đã gặp rất nhiều lúng túng trong việc xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa này khi chúng ta luôn coi văn hóa là một lĩnh vực nhạy cảm, rộng lớn không thể áp dụng hoàn toàn các quy luật, mối quan hệ kinh tế để xử lý vấn đề văn hóa. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã lần đầu tiên đề cập rõ về công nghiệp văn hóa, xác định phát triển công nghiệp văn hóa là một trong năm mục tiêu cụ thể của xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong những thập kỷ tới “Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam”. Để thực hiện mục tiêu này, Nghị quyết đã xác định “phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa” như một trong sáu nhiệm vụ được triển khai, trong đó nói rõ mục đích phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; Đảng chủ trương khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Muốn vậy phải có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch, thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển. Để phát triển công nghiệp văn hóa, Nghị quyết cũng chi rõ, cần phải đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa. Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã hội. Củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và các cơ quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương tới địa phương. Như vậy, vấn đề phát triển công nghiệp văn hóa được đề cập trong Nghị quyết đã bao quát khá toàn diện và cụ thể các khía cạnh: mục đích, nội dung, điều kiện và trách nhiệm quản lý Nhà nước trong phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta trong những thập kỷ tới. 

Đây là cơ sở để nhận thức về công nghiệp văn hóa trong quan hệ với văn hóa với phát triển bền vững, phục vụ trực tiếp mục đích phát triển đất nước, con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Có thể nói, công nghiệp văn hóa là một ngành sản xuất công nghiệp đặc thù, vì ở đó, sản phẩm được tạo ra là văn hóa và tạo ra những sản phẩm văn hóa bằng phương thức công nghiệp.

Do đó, công nghiệp văn hóa vừa thuộc phạm trù kinh tế vừa thuộc phạm trù văn hóa. Đó là tác động của mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa và giữa văn hóa với kinh tế. Các sản phẩm của công nghiệp văn hóa dưới dạng hàng hóa, vật thể vừa là văn hóa vật chất vừa là văn hóa tinh thần, phục vụ nhu cầu thưởng thức, cảm thụ, tiêu dùng văn hóa của con người, những nhu cầu và thị hiếu cảm thụ tiêu dùng hết sức đa dạng, lại nhiều mức độ và cung bậc khác nhau.

Trong phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021-2025 của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đề ra nhiệm vụ “Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa”3.

Công nghiệp văn hóa vừa thể hiện chức năng kinh tế, đem lại lợi ích, lợi nhuận trong sản xuất - kinh doanh, vừa phải đảm bảo chức năng văn hóa, giáo dục nhận thức, bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ lại vừa nhằm giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách, thực hành lối sống. Tiêu dùng sản phẩm văn hóa do công nghiệp văn hóa chế tạo ra, vừa nhằm đáp ứng và kích thích nhu cầu văn hóa, xây dựng lối sống văn hóa, xã hội văn minh vừa góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, làm giàu cho đất nước, nhất là trong hội nhập kinh tế và văn hóa.

Như vậy, nhận thức của Đảng và Nhà nước ta đối với lĩnh vực văn hóa nói chung và công nghiệp văn hóa nói riêng đã có sự thay đổi cơ bản: (1) Thừa nhận có thị trư­ờng văn hóa phẩm và công nhận sản phẩm văn hóa nh­ư là hàng hóa đ­ược l­ưu thông trên thị trường; (2) Tạo điều kiện cho thị trư­ờng văn hóa phẩm phát triển bằng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế; (3) Thông qua một số chính sách cụ thể, khuyến khích ngành công nghiệp văn hóa phát triển. Khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước, khẳng định sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế nhằm phát triển kinh tế tri thức và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này giúp các nhà quản lý và các nhà hoạt động văn hóa, nghệ thuật theo mô hình "bao cấp" trước đây vượt qua những định kiến hẹp hòi, khép kín cho rằng văn hóa không phải là sản phẩm hàng hóa, văn hóa không tham gia vào thị trường, văn hóa không có chức năng kinh tế..., giải phóng năng lực sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhà quản lý, các doanh nghiệp ở thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư vào lĩnh vực này.

Bên cạnh đó, Nhà nước đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp quy về văn hóa, thông tin, trong đó có nhiều luật và văn bản dưới luật liên quan trực tiếp đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa như Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo, Luật Sở hữu trí tuệ… Quốc hội cũng đã xem xét, thông qua nội dung nhiều luật quan trọng, thuộc lĩnh vực văn hóa nói chung, công nghiệp văn hóa nói riêng, tạo hành lang pháp lý cho văn hóa phát triển đúng hướng, vững chắc trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt chức năng giáo dục chính trị - tư tưởng, chức năng định hướng các chuẩn giá trị của văn hóa, đồng thời phát huy được hiệu ích kinh tế của các hoạt động văn hóa. "Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020" đánh giá: "Cơ chế thị trường huy động được sự tham gia của các thành phần kinh tế vào sản xuất, phổ biến các sản phẩm văn hóa, kích thích một số ngành sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa xuất hiện, mở ra khả năng giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, tạo tiền đề cho việc phát triển "công nghiệp văn hóa" ở nước ta"4. Đồng thời, Chiến lược nhận định: "Phát triển công nghiệp văn hóa đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới". Tiếp đó, “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được Chính phủ ban hành ngày 8/9/2016 với mục tiêu “Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam” và đến nay đang được nghiên cứu điều chỉnh.

e290441bcbd963873ac8-1735594223.jpg
Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam năm 2023

2. Thực trạng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta trong thời gian qua

Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Chiến lược) xác định 12 ngành công nghiệp văn hóa gồm: Quảng cáo; Kiến trúc; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Thủ công mỹ nghệ; Thiết kế; Điện ảnh; Xuất bản; Thời trang; Nghệ thuật biểu diễn; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Truyền hình và phát thanh; Du lịch văn hóa.

Trên thực tế, không phải đợi đến năm 2016 khi ban hành Chiến lược, chúng ta mới có các ngành công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, rõ ràng là, với cách tư duy, quản lý và vận hành các lĩnh vực trên theo lối cũ, các lĩnh vực này không tồn tại như các ngành công nghiệp văn hóa theo nghĩa đúng nhất của khái niệm này, ở đó, đòi hỏi tính chuyên nghiệp, tuân theo quy luật của thị trường, có sự kết nối giữa tài năng sáng tạo, nguồn lực văn hóa, công nghệ và kỹ năng kinh doanh để hình thành nên các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Sự chưa phát triển và tính không chuyên nghiệp thể hiện ở việc rất nhiều các công trình nghệ thuật được sản xuất ra và rơi vào quên lãng, lãng phí tiền của của Nhà nước và xã hội. Những ví dụ như một số bộ phim nhiều tỷ đồng nhưng không thể chiếu ở rạp còn tồn tại ở rất nhiều các lĩnh vực khác nhau, từ âm nhạc, phim ảnh đến thủ công mỹ nghệ... Nhiều nghệ sĩ, nghệ nhân, những người sáng tạo không sống được bằng nghề. Thị trường nghệ thuật méo mó, không phát triển theo đúng quy luật cung-cầu...

Nhìn chung, kể từ sau khi ban hành Chiến lược, việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đã có những chuyển biến tích cực, nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng - 3 thành phố được thiết kế để trở thành trung tâm công nghiệp văn hóa của cả nước. Những thành tựu đáng kể như Hà Nội, Hội An, Đà Lạt đã tham gia vào mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO, các sự kiện sáng tạo, không gian sáng tạo được “nở rộ” ở các đô thị, hay sự quan tâm nhiều hơn của xã hội đối với các ngành công nghiệp văn hóa thông qua các hội nghị, hội thảo, tọa đàm ở các quy mô khác nhau là những ví dụ điển hình như vậy.

Công nghiệp văn hóa đang trở thành xu hướng và được xác định là phần quan trọng, bền vững, đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước. Theo báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: “giá trị tăng thêm (giá hiện hành) của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp vào nền kinh tế năm 2018 ước đạt 5,82%; năm 2019 ước đạt 6,02%; năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của đại dịch nên số liệu có sự sụt giảm chỉ còn khoảng 4,32% và 3,92%; đến năm 2022 các ngành đã bắt đầu phục hồi và giá trị đóng góp có sự tăng trưởng ước đạt 4,04%. Giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam giai đoạn 2018 - 2022 đóng góp ước bình quân đạt 1,059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD). Giai đoạn 2018 - 2022, bình quân 5 năm tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa ước đạt 7,2%/năm; năm 2022 thống kê có khoảng 70.321 cơ sở5 đang hoạt động có liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa. Lực lượng lao động thuộc các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá nhanh, bình quân 5 năm lao động tăng 7,4%/năm, năm 2022 thu hút khoảng 2,3 triệu lao động, chiếm tỷ trọng 4,42% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế. Xuất nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ của các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn 2018 - 2022 tạo ra giá trị xuất siêu, năm 2018 xuất siêu ước đạt 37 tỷ USD, đến năm 2022 xuất siêu tiếp tục tăng, ước đạt 41,9 tỷ USD”6.

img-8930-1735594414.jpeg
Chương trình tour đêm "Ngọc Sơn - Đêm huyền bí" do Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội thực hiện đang góp phần vào phát triển công nghiệp văn hóa tại Thủ đô.

Trong những lĩnh vực cụ thể, theo báo cáo của các cơ quan chuyên ngành, giai đoạn 2018 - 2022, các ngành công nghiệp văn hóa về cơ bản đã có những đóng góp tích cực với xu hướng phát triển nhanh; tăng về giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, nguồn lực lao động, và số lượng cơ sở kinh tế hoạt động... Chẳng hạn như lĩnh vực truyền hình và phát thanh, giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) giai đoạn 2018 - 2022 bình quân tăng 7,52%/năm; giá trị gia tăng bình quân tăng 7,51%/năm. Hệ thống phát thanh, truyền hình trên toàn quốc đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng, nội dung và chất lượng chương trình. Tổng doanh thu của các Đài phát thanh, truyền hình năm 2022 đạt khoảng 15.048 tỷ đồng, trong đó doanh thu quảng cáo khoảng 7.565 tỷ đồng...

Có thể thấy, đóng góp của các ngành ông nghiệp văn hóa đối với nền kinh tế của đất nước là khá lớn. Điều này cũng rất tương đồng so với xu hướng chung của thế giới. Không những thế, phát triển các ngành ông nghiệp văn hóa hóa còn tạo điều kiện khai thác những giá trị văn hóa dân tộc, giúp tăng năng lực cạnh tranh quốc gia và quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới.

3. Đề xuất một số giải pháp

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức.

Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho văn hóa như là một phần chiến lược kinh doanh và thể hiện trách nhiệm với xã hội, cộng đồng.

Huy động sự tham gia rộng rãi, có hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới nhằm cải thiện Điều kiện kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa, nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường; các chính sách ưu đãi về vốn, thuế, đất đai, khuyến khích sáng tạo đối với văn nghệ sỹ, các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Rà soát, Điều chỉnh, bổ sung cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa các bộ, ngành, bảo đảm đồng bộ, tránh chồng chéo, trùng lặp nhằm thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; tăng cường phân cấp trong hệ thống hành chính, đồng thời đẩy mạnh hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thực thi công vụ.

Củng cố mô hình tổ chức, nâng cao năng lực của các trung tâm bảo vệ quyền tác giả và các tổ chức dịch vụ quyền tác giả.

Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê và cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa.

Tiếp tục triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, đồng thời nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển đối với những ngành chưa có chiến lược, quy hoạch (nếu cần thiết).

Ba là, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực

Xây dựng kế hoạch về phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy trao đổi kiến thức, nâng cao năng lực chuyên môn, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho các ngành công nghiệp văn hóa.

Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực và cải thiện kỹ năng quản lý, kỹ năng kinh doanh trong các ngành công nghiệp văn hóa; tăng cường liên kết, hợp tác để các cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu tham gia có hiệu quả vào phát triển nguồn nhân lực nói riêng cũng như phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nói chung. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, thực thi về quyền tác giả, quyền liên quan; thường xuyên tập huấn chuyên môn về bảo vệ bản quyền và thu phí bản quyền có hiệu quả; hình thành đội ngũ chuyên gia trong các ngành công nghiệp văn hóa và lĩnh vực bản quyền.

Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm chuyên môn từ các nước có trình độ phát triển cao về công nghiệp văn hóa đến Việt Nam làm việc.

Bốn là, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ.

Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm văn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa; thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa gắn với ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại; nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật trong chuỗi sản xuất sản phẩm, dịch vụ của các ngành công nghiệp văn hóa.

Đổi mới và phát triển các ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn hóa truyền thống như: In ấn, xuất bản, phát hành, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, giải trí, quảng cáo, triển lãm. Tăng cường hợp tác, tranh thủ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ các quốc gia phát triển.

Năm là, thu hút và hỗ trợ đầu tư

Xây dựng các chính sách ưu đãi, đẩy mạnh tuyên truyền, xúc tiến đầu tư phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẵn có lợi thế, tiềm năng như: Điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ, phần mềm và các trò chơi giải trí, truyền hình và phát thanh, thời trang, du lịch văn hóa.

Khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tăng cường đầu tư vào các hoạt động sáng tạo văn hóa, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ văn hóa; phát triển mạng lưới doanh nghiệp, trong đó hình thành một số tập đoàn lớn về công nghiệp văn hóa ở các lĩnh vực truyền thông, điện ảnh, phát thanh và truyền hình, phần mềm và các trò chơi trực tuyến.

Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực, quảng bá, phát triển thị trường văn hóa, tạo mối liên kết thị trường về ngành nghề và khu vực, xây dựng thương hiệu quốc gia cho các ngành công nghiệp văn hóa; đa dạng hóa các mô hình đầu tư, đặc biệt mô hình hợp tác công tư (PPP); khuyến khích hình thành và phát triển các loại quỹ đầu tư trong lĩnh vực văn hóa.

Tăng cường vai trò của các tổ chức hiệp hội ngành nghề trong việc đầu tư, hỗ trợ phát triển các hoạt động sáng tạo, sản xuất, phân phối, phổ biến và tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa.

Sáu là, phát triển thị trường

Từng bước hình thành cộng đồng người tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ văn hóa trong nước thông qua hoạt động quảng bá, nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của công chúng; phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục của các đơn vị, tổ chức văn hóa nhằm phát triển công chúng, người tiêu dùng về năng lực hiểu biết, cảm thụ các sản phẩm, dịch vụ văn hóa.

Đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất và sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng cao tham gia vào thị trường văn hóa trong nước và quốc tế; xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng.

Huy động các nguồn lực trong xã hội để hình thành và phát triển 3 trung tâm công nghiệp văn hóa tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và một số trung tâm gắn với các di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới.

Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm dịch vụ văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài; có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình tham gia và phát triển thị trường quốc tế.

Bảy là, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.

Tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế tại Việt Nam trở thành các sự kiện thường niên, có uy tín khu vực và thế giới, thu hút sự tham gia của các nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa nghệ thuật có uy tín, được đông đảo công chúng quan tâm.

Xây dựng và triển khai các chương trình quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp văn hóa Việt Nam, các tài năng tiêu biểu về văn hóa của đất nước tại các hội chợ quốc tế, liên hoan quốc tế; lồng ghép các chương trình quảng bá phát triển công nghiệp văn hóa gắn với các sự kiện ngoại giao.

Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, mở rộng giao lưu, trao đổi văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới; xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.56,

2. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Văn hoá và Phát triển, Nxb.Lý luận chính trị, Hà Nội, 2021.

3. Kỷ yếu Hội nghị Văn hoá toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tr. 212, 213.

4. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ngày 08/9/2016.

5. Cơ sở hoạt động liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa bao gồm: doanh nghiệp, cơ sở kinh tế cá thể, đơn vị sự nghiệp có liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa.

6. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2023): Báo cáo trung tâm về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.

ThS. TRẦN NGUYỄN BẢO MINH

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin