Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực chính trị - Sự kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin

CT&PT - Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực chính trị là sự kết tinh giữa tư tưởng chính trị phương Đông và tiếp thu có chọn lọc giá trị dân chủ - pháp quyền phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị. Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng lý luận về quyền lực chính trị của giai cấp vô sản, mà còn bổ sung, phát triển sáng tạo phù hợp với đặc điểm lịch sử chính trị - xã hội của Việt Nam. Quan điểm này thể hiện nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh và góp phần làm phong phú lý luận mácxít về quyền lực chính trị.

1. Khái quát lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị

Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị là lý luận cho việc tổ chức, thiết lập và sử dụng quyền lực nhằm phục vụ mục tiêu giải phóng con người và xây dựng xã hội mới.

Thứ nhất, quyền lực chính trị là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực giai cấp.

C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”1. Điều này khẳng định rằng trong xã hội có đối kháng giai cấp, chỉ tồn tại quyền lực của một giai cấp - với mục tiêu bảo vệ lợi ích và duy trì vị thế thống trị của giai cấp đó. Việc giành, giữ và kiểm soát quyền lực chính trị trở thành vấn đề trung tâm của cách mạng vô sản. V.I. Lênin khẳng định, để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội loài người, trước hết, giai cấp vô sản phải đập tan, xóa bỏ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản, đấu tranh chính trị để giành lấy quyền lực nhà nước cho giai cấp vô sản. Ông cũng cho rằng, nếu quyền lực chính trị nằm trong tay giai cấp tiến bộ, phù hợp với quyền và lợi ích của đa số, thì mới lãnh đạo được công việc của đất nước. Nếu quyền lực chính trị tập trung vào tay một giai cấp có lợi ích đối lập với quyền lợi của đa số, thì việc lãnh đạo sẽ không phản ánh ý chí chung mà trở thành một sự lừa dối, hay công cụ áp bức đa số2. Vì vậy, chỉ có các lực lượng tiến bộ mới biến chính quyền thành công cụ hiệu quả xóa bỏ cơ chế lỗi thời, các quan hệ trì trệ, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn.

Thứ hai, chuyên chính vô sản là một tất yếu.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sau khi giành chính quyền, quyền lực chính trị của giai cấp vô sản được thể hiện thông qua nhà nước chuyên chính vô sản. Đây là hình thức tổ chức quyền lực chính trị đặc thù, nhằm thủ tiêu hoàn toàn mọi sự bóc lột, bảo vệ thành quả cách mạng và tổ chức lại đời sống kinh tế - xã hội. Chuyên chính vô sản “tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị”3. Chuyên chính vô sản với tính cách là chế độ chính trị, một giai đoạn đặc biệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực, là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. V.I. Lênin khẳng định: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản..., sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu số ít, đối với bọn bóc lột”4 và “sự trấn áp ấy có thể dung hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân”5. Điều này khẳng định, chuyên chính vô sản không chỉ là trấn áp, mà điều cần thiết đó là hải thực hiện hoàn toàn và triệt để chế độ dân chủ là tiền đề để đạt đến mục đích cuối cùng là chủ nghĩa xã hội, đó là sự biện chứng của quá trình thực hiện dân chủ trong quan điểm của Lênin. Ngay cả trong thời kỳ quá độ thì nhiệm vụ “chuyên chính” vẫn là tất yếu, vì vậy giai cấp vô sản phải kiên định với nguyên tắc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội là cơ sở để duy trì quyền lực chính trị của mình.

Chủ nghĩa Mác - Lênin xác định chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản. “Chỉ có một đảng được vũ trang bằng lý luận tiên phong mới có thể làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”6. Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ là yếu tố chính trị, mà còn mang tính chiến lược trong toàn bộ quá trình xây dựng và củng cố quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin khẳng định, chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo hay sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo ấy không chia sẻ với ai, và trực tiếp dựa vào lực lượng vũ trang của quần chúng.

Thứ ba, mục tiêu cuối cùng của quyền lực chính trị là giải phóng con người.

Không giống như quyền lực chính trị tư sản nhằm duy trì bóc lột, quyền lực chính trị của giai cấp công nhân mang tính chất cách mạng, nhằm xóa bỏ bất công xã hội và hướng tới một xã hội không còn áp bức. Khi đó, quyền lực chính trị không còn là công cụ thống trị nữa, mà là công cụ phục vụ nhân dân. C. Mác và Ph. Ănghen dự báo rằng, nhà nước cùng với quyền lực chính trị sẽ mất đi sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa7. V.I. Lênin cũng khẳng định nguồn gốc của quyền lực chính trị bao giờ cũng dựa trên một cơ sở kinh tế, một nền tảng vật chất nhất định. Do đó, khi lực lượng sản xuất phát triển, giai cấp mất đi thì Nhà nước với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực chính trị của giai cấp thống trị cũng trở nên không cần thiết, dẫn đến “tự tiêu vong”. Nhà nước tiêu vong nghĩa là chức năng xã hội của nó - trước hết là quản lý xã hội mất dần chính trị, “biến chức năng xã hội từ chỗ là chức năng chính trị thành chức năng quản lý đơn thuần”8. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị đã đưa ra một định hướng cách mạng, nhân văn cho việc tổ chức lại quyền lực theo hướng giải phóng con người.

Thứ tư, về thực thi quyền lực chính trị.

Sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản đã trở thành chủ thể quyền lực, đại diện cho toàn xã hội để thực thi quyền lực xã hội. Từ giai đoạn đấu tranh giành quyền lực, giai cấp vô sản đã chuyển sang đấu tranh để giữ vững và thực thi quyền lực đó trong xây dựng và củng cố chế độ xã hội của mình. V.I. Lênin cho rằng “Ngày nay, nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm”9. Giai cấp công nhân phải tập làm quen với công việc mới, thích ứng với yêu cầu mới, phải học cách lãnh đạo và quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế và quản lý nhà nước, bảo đảm tốt nhất sự ủy quyền của nhân dân, làm cho việc thực thi quyền lực đó không bị biến dạng, thoái hóa, để cho quyền lực thực sự là của dân và dân thực sự được làm chủ, trở thành người chủ. Chính quyền mới phải xây dựng dựa trên cơ sở vững chắc của khối liên công - nông, là liên minh chính trị bảo đảm cho công nhân và nông dân có quyền làm chủ. Bởi “nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân chủ vững bền, không thể có cải tạo xã hội chủ nghĩa được”10.

Trong công tác tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước mới, V.I. Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tổ chức cán bộ. Ông cho rằng phải có bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả, cán bộ là những người có phẩm chất, năng lực ưu tú và thật sự gương mẫu. Phải đặc biệt lựa chọn cẩn thận những cán bộ vào cơ quan nhà nước. V.I. Lênin đòi hỏi cán bộ là “công bộ có trách nhiệm của xã hội”; do nhân dân lựa chọn theo chế độ “đầu phiếu phổ thông”, không còn đặc quyền, đặc lợi phải “thực hành chế độ tuyển cử toàn diện, chế độ bãi miễn bất cứ lúc nào, đối với hết thảy mọi viên chức không trừ một ai, rút số lương của họ xuống ngang mức tiền lương của công nhân”11.

Thứ năm, đấu tranh với chủ nghĩa quan liêu trong bộ máy chính quyền.

Để giữ vững quyền lực chính trị của giai cấp vô sản, V.I. Lênin đã đặt ra yêu cầu phải đấu tranh phòng, chống quan liêu. V.I. Lênin cho rằng: “Kẻ thù của chúng ta là bọn đầu tư và bọn quan liêu”12. Vì vậy, Lênin đã chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa sống còn của cuộc đấu tranh chống căn bệnh quan liêu đối với sự thành bại của chế độ xã hội chủ nghĩa. Để phòng tránh và loại bỏ chủ nghĩa quan liêu, Lênin vận dụng và phát triển những kiến giải từ C. Mác và Ph. Ăngghen và nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng những hình thức và những phương pháp kiểm tra “từ dưới lên” một cách đa dạng và linh hoạt để loại bỏ tận gốc chủ nghĩa quan liêu13.  Đồng thời, Lênin cũng quan tâm đến việc phòng chống lãng phí, thực hành tiết kiệm. Trong tác phẩm Thà ít mà tốt, Lênin đã chỉ ra một biện pháp quan trọng, cần thiết là giảm bớt ngân sách của Chính phủ bằng cách giảm bớt số nhân viên ở các cơ quan: “Chỉ có giảm bớt đến mức tối đa tất cả những cái không tuyệt đối cần thiết, chúng ta mới có thể đứng vững được”14. Đồng thời, tiết kiệm còn để khôi phục kinh tế và phát triển “công nghệ”, là cơ sở để xây dựng đất nước độc lập, tự cường.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất và tổ chức, thực thi quyền lực chính trị trong thời đại tư bản chủ nghĩa, cùng với những đóng góp lý luận về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với thực tiễn cách mạng nước Nga thời kỳ đó. Mà còn trở thành nền tảng tư tưởng lý luận quan trọng, quyết định đến việc hình thành tư duy chính trị và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh trong thực thi quyền lực chính trị của nhân dân.

2. Sự kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực chính trị

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển nguyên lý giai cấp trong quyền lực chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Khẳng định quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất giai cấp của quyền lực chính trị là giai cấp cầm quyền, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh nhất quán giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng chính trị cầm quyền, tổ chức và lãnh đạo cách mạng, xây dựng xã hội mới. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng khẳng định quyền lực chính trị trong xã hội là thuộc về nhân dân. Đó là sự thống nhất, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực với nguồn gốc của quyền lực chính trị.

Trong chế độ dân chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, là thứ quyền lực chung trong xã hội, được xã hội thừa nhận và tự nguyện tuân thủ. Giai cấp công nhân với vai trò lãnh đạo của mình đã sử dụng quyền lực chính trị để thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quyền lực chính trị đó không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại diện cho lợi ích chung của đại đa số nhân dân trong xã hội. Nguồn gốc của quyền lực chính trị xuất phát từ dân, là sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân kết lại thành một khối, là thành quả của cuộc đấu tranh lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, Vì vậy, quyền lực chính trị đó thuộc về nhân dân. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong quy luật ra đời và bản chất giai cấp của của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, Đảng cầm quyền không chỉ mang bản chất của giai cấp công nhân mà còn mang tính nhân dân, dân tộc sâu sắc.

Sự thống nhất giữa quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và quyền lực chính trị của nhân dân lao động đã tạo nên sức mạnh và tính chính đáng của quyền lực chính trị; bảo đảm được quyền lực của mỗi yếu tố trong cơ cấu quyền lực chính trị, giữa quyền lực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Khi nào giai cấp công nhân đi ngược lại mục tiêu chính trị, trở thành giai cấp đối nghịch với nhân dân, giai cấp công nhân sẽ bị tước đi vai trò cầm quyền. Sự thống nhất này cũng hạn chế sự mâu thuẫn, đối trọng trong việc tổ chức, thực thi quyền lực chính trị, đảm bảo sự ổn định xã hội. Đó là sự khác biệt căn bản giữa giai cấp vô sản nắm quyền với giai cấp tư sản cầm quyền. Sự hòa quyện chặt chẽ giữa quyền lực chính trị của giai cấp công nhân với quyền lực của nhân dân lao động tạo nên nội dung và bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hồ Chí Minh kiên định bản chất giai cấp của quyền lực chính trị, đồng thời góp phần xây dựng một nền chính trị dân chủ và mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữ chính quyền và nhân dân.

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa quan điểm tổ chức, thực thi quyền lực chính trị cho nhân dân.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp vô sản chỉ có thể giữ vững địa vị thống trị của mình và giành thắng lợi trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thông qua thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ. Vì vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vô sản trong hiện thực hóa quyền lực chính trị của nhân dân. Kế thừa quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã xây dựng một nhà nước dân chủ kiểu mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, là công cụ thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. Người không chỉ bảo đảm các quyền chính trị (bầu cử, ứng cử, quyền bãi miễn, quyền tự do hội họp, lập hội) của nhân dân, mà còn mở rộng phạm vi quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội (quyền lợi về kinh tế, văn hóa..). Người động viên, giáo dục quần chúng nhân dân trở thành chủ thể tích cực tham gia hoạt động chính trị, tham gia đóng góp vào công việc quản lý của nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gắn quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế, dùng sức mạnh về kinh tế để đảm bảo giữ vững quyền lực chính trị. Người hiểu rõ, nếu đất nước được tự do, độc lập mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập ấy cũng không có ý nghĩa gì, vì giá trị của tự do và độc lập là khi dân được ăn no và mặc đủ15. Vì vậy, nhiệm vụ của chính quyền chỉ nhằm một mục đích là mưu cầu tự do và hạnh phúc của nhân dân, làm cho nhân dân ngày càng tiến bộ về vật chất và tinh thần. Thực hiện chuyên chính vô sản không chỉ để trấn áp “với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ của nhân dân”16, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn sử dụng chuyên chính như “cái khóa” để bảo vệ dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản cho đa số nhân dân.

Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm của Lênin về đấu tranh phòng chống tham ô, lãng phí, quan liêu vào xây dựng bộ máy quyền lực chính trị.

Khẳng định quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống quan liêu - một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích nguyên nhân, hậu quả và đề ra các biện pháp nhằm xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh cho nhân dân. Người cho rằng, tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù của nhân dân, là những căn bệnh nguy hiểm từ bên trong phá hoại tư cách, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, ảnh hưởng đến uy tín, sứ mệnh cầm quyền của Đảng. Nếu chúng ta đánh giặc ngoại xâm giỏi rồi, mà chưa đánh được giặc nội xâm cũng là chưa làm trọn nhiệm vụ với Tổ quốc và nhân dân.

Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng lãng phí thậm chí còn có hại nhiều hơn “tham ô”, vì nó rất phổ biến trong xã hội, ai cũng có thể mắc bệnh lãng phí. Hậu quả của nó chính là ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế, làm chậm bước cải thiện đời sống của nhân dân; làm chậm bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người còn chỉ rõ nguồn gốc nảy sinh của nạn tham ô, lãng phí chính là bệnh quan liêu. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là việc làm cần thiết và thường xuyên để nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần làm chủ, nâng cao ý thức bảo vệ của công. Đồng thời còn giúp cho cán bộ, đảng viên giữ gìn phẩm chất cách mạng, “một lòng, một dạ” phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Vì người cán bộ có thực hành cần, kiệm, không lãng phí, mới có thể trở nên liêm, chính, mới làm cho người khác kính nể được17.

Để đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, theo Người, phải chuẩn bị kế hoạch, phải có lãnh đạo, tổ chức và “trung kiên”, trong đó bước đầu là sửa chữa tư tưởng, những ý nghĩ sai lầm về tham ô, lãng phí, quan liêu. Tiếp đó là “gây” một phong trào, làm cho mọi người ai cũng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu. Pháp luật không trị được hết thì phải tự mình “gây ra cái pháp luật để trị mình”18. Phát huy quyền và trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, Người viết: biến hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu có chỗ ẩn nấp19. Chỉ có dựa vào quần chúng thì phong trào đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu mới thắng lợi được. Trong đó, cán bộ, đảng viên là những người đứng đầu phải nâng cao tinh thần gương mẫu, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước và nhân dân. Đồng thời, sử dụng phê bình và tự phê bình - là vũ khí mạnh nhất để loại bỏ tham ô, lãng phí quan liêu, nhưng phải phê bình “thật sự” chứ không phải phê bình “hình thức”. Ngoài ra, còn sử dụng vai trò của báo chí trong việc cải tạo tư tưởng, khuyến khích quần chúng, mở rộng phong trào phê bình. Với biện pháp “trên đe dưới búa” của phê bình, thì nhất định đẩy lùi được bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí20. Đối với những kẻ ngoan cố làm hại đến quyền lợi của dân, ảnh hưởng đến Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu xử lý và kỷ luật nghiêm khắc. Người chỉ rõ: “Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại”21. Kỷ luật còn là sức mạnh của Đảng, là sự đoàn kết thống nhất để đảm bảo quyền lực chính trị của liên minh công - nông - trí.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng này muốn thành công phải “tín tâm và quyết tâm”22. Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ. Người cán bộ phải có lòng dũng cảm, phải có nghị lực và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, vì “vàng thật thì không sợ lửa, càng được đe và búa tôi luyện, thì vàng sẽ tốt thêm”23. Hồ Chí Minh chính là hiện thân mẫu mực về đạo đức cách mạng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao yếu tố đạo đức của người cầm quyền.

Một đóng góp lý luận đặc biệt sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đưa đạo đức cách mạng trong thực thi quyền lực chính trị. Nếu như chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu bàn đến tính giai cấp của quyền lực và cơ chế kiểm soát thông qua thể chế, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để giữ vững quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, người cầm quyền phải có văn hóa, đạo đức. Quyền lực chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở uy tín, danh dự, lương tâm của một Đảng cầm quyền, ở mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa người cầm quyền với nhân dân. Nếu quyền lực được trao cho người có năng lực, trí tuệ, có đạo đức và nhân cách thì quyền lực đó phát huy tác dụng “ích nước, lợi dân”. Ngược lại, nếu quyền lực lại trao cho người thiếu đạo đức, nhân cách, thì quyền lực đó sẽ trở thành công cụ để mưu cầu lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và tất yếu dẫn đến tham ô, lãnh phí, quan liêu. Đạo đức cách mạng giúp cho người cán bộ vượt qua mọi khó khăn, sự cám dỗ của đồng tiền, của quyền lực trong thực hiện nhiệm vụ. Người cán bộ phải nhận thức rõ rằng, từ chủ tịch nước đến “người quét nhà” đều là “đầy tớ” cho dân, vì vậy không được “lên mặt quan cách mạng”, phải “một lòng một dạ, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”24. Khi được dân tín, dân dùng phải tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, khi không làm tròn trách nhiệm của mình phải mạnh dạn từ bỏ quyền lực đó để cho người xứng đáng hơn. Lựa chọn cán bộ vào cơ quan của chính phủ phải là những người “công tâm, trung thành, sốt sắng”25 với quyền lợi của nhân dân, là những người có năng lực làm việc và được đông đảo nhân dân tín nhiệm. Người yêu cầu tuyệt đối không để những kẻ nhờ tiền tài hay lợi dụng thế lực, danh nghĩa để kéo bè, kéo cánh, đưa người “trong nhà trong họ”26 vào làm việc trong các cơ quan nhà nước.

Vì vậy, phải xây dựng nền tảng đạo đức và văn hóa cho người cầm quyền nhằm tạo cơ chế tự kiểm soát, biết xấu hổ khi lạm dụng quyền lực, đồng thời thúc đẩy hình thành văn hóa từ chức như một chuẩn mực của đạo đức công vụ. Trong điều kiện Đảng cầm quyền và thực thi chính quyền, phải đấu tranh xóa bỏ các căn bệnh nguy hiểm như tham ô, lãng phí, quan liêu, cựa quyền, hách dịch. Những căn bệnh phá hoại tư tưởng, tổ chức của Đảng từ bên trong, đánh mất uy tín và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Đồng thời phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, rèn luyện nhân cách, xây dựng văn hóa chính trị, nâng cao bản lĩnh, trí tuệ của mình để phục vụ nhân dân và đất nước. Đó là việc làm thường xuyên và thực chất để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Trong 5 đức tính của người cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra, phẩm chất quan trọng nhất của người cầm quyền là chữ “Liêm”. Trong 12 điều về “tư cách đạo đức” của người cách mạng, Người đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí “ít lòng ham muốn về vật chất”. Những phẩm chất chính trị đó là những yếu tố chi phối mọi tư tưởng, hành động và trở thành lẽ sống của người cách mạng. Quyền lực chính trị xét cho cùng đều vì nhân dân, vì con người, hướng tới mục tiêu cao cả giải phóng con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh không quá tập trung bàn về tính cưỡng chế của quyền lực chính trị, mà nhấn mạnh đến nguồn gốc và bản chất của quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị nhằm xoay quanh trục xây dựng chính quyền dân chủ phục vụ nhân dân, đem lại quyền và lợi ích chính đáng cho đại đa số nhân dân.

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về quyền lực chính trị. Trong đó, Người đã làm rõ bản chất của quyền lực chính trị, bổ sung luận điểm mới về tổ chức thực thi quyền lực chính trị trong thực tiễn xã hội Việt Nam; đặc biệt là nhấn mạnh yếu tố đạo đức của người cầm quyền và đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu - những căn bệnh nguy hiểm trong thực thi quyền lực chính trị. Tư tưởng đó là sự bổ sung yếu tố thực tiễn chính trị phương Đông, đồng thời hình thành giá trị nhân văn của quyền lực chính trị. Điều này tạo nên tính độc đáo, linh hoạt và bền vững trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục là nền tảng tư tưởng trong xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam.


1, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 4, 1995, tr. 628, 626.

2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 34, tr. 52.

4, 5, 8, 10, 11. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 10, 111, 77, 49, 54.

6, 12, 13, 14. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 32; t. 37, tr. 511; t. 36, tr. 254; t. 45, tr. 459.

7. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 18, tr. 418.

9. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, tr. 209.

15, 17, 25, 26. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 4, tr. 175, 182, 21, 22.

16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 457.

18, 20, 22. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 7, 140, 9.

19, 23. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 419, 419.

21, 24. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 324; t. 7, tr. 322.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin