Phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển, đô thị và nông thôn mới hướng tới phân bố lại không gian phát triển, khai mở động lực mới cho giai đoạn 2025 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2045

CT&PT - Phát triển không gian kinh tế theo vùng, theo trục, theo cực tăng trưởng là một trong những đột phá chiến lược, nhằm khắc phục tình trạng phát triển cục bộ, phân mảnh, thiếu liên kết. Trong đó, 4 không gian trọng yếu được xác định là: Kinh tế vùng, kinh tế biển, đô thị và nông thôn mới. Đối với mỗi không gian kinh tế này sẽ có những định hướng và chiến lược phát triển cụ thể, cần những giải pháp hành động mạnh mẽ, thực chất để phù hợp với kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.

Phát triển không gian lãnh thổ tạo kinh tế vùng

Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thế và lực đã lớn mạnh hơn nhiều; đã khai thác được tiềm năng, lợi thế của đất nước. Phát triển vùng, liên kết vùng có sự chuyển biến tích cực, hình thành nhiều vùng kinh tế lớn có vai trò quan trọng trong phát triển đất nước. Bước đầu đã hình thành các hành lang kinh tế trên địa bàn các vùng, liên vùng; không gian đô thị được mở rộng, dần hình thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế; cũng như đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, đô thị, thông tin và truyền thông... 

Tuy nhiên, với quy mô phát triển không gian lãnh thổ gồm 63 tỉnh, thành phố trong giai đoạn trước đã bộc lộ một số hạn chế đáng chú ý, khi nhiều tỉnh có diện tích và dân số nhỏ, chưa đáp ứng được các tiêu chí tối thiểu về quy mô quản lý hành chính và kinh tế theo chuẩn quốc tế, dẫn đến việc không gian phát triển bị chia cắt mạnh theo địa giới hành chính, làm suy giảm tính liên kết vùng vốn đã tồn tại nhiều bất cập; bên cạnh đó, hoạt động đầu tư phát triển vẫn còn dàn trải theo các vùng, miền mà chưa tập trung đủ nguồn lực để hình thành rõ nét các vùng động lực có khả năng dẫn dắt tăng trưởng kinh tế quốc gia, trong khi bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia chưa được xây dựng một cách đồng bộ và hiện đại, đặc biệt là hệ thống hạ tầng giao thông và năng lượng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển, thậm chí một số công trình hạ tầng quan trọng còn chậm được triển khai đầu tư.

Ngoài ra, hệ thống đô thị hiện nay phân bố chưa hợp lý, chủ yếu phát triển theo chiều rộng mà chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, đồng thời chưa hình thành được các trung tâm tài chính lớn có vai trò điều phối và thúc đẩy nền kinh tế, trong khi việc phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp và khu du lịch vẫn còn mang tính dàn trải, thiếu tính tập trung và liên kết, dẫn đến hiệu quả khai thác chưa cao và chưa tạo được động lực rõ rệt cho phát triển vùng và quốc gia.

Vì vậy, tinh gọn đơn vị hành chính cấp tỉnh với 34 đơn vị là một chủ trương lớn mang tính chiến lược quốc gia, phù hợp với quy mô quản lý và phát triển lãnh thổ cũng như bối cảnh, không gian phát triển đất nước Việt Nam. Để phát triển kinh tế vùng trong bối cảnh mới sắp tới, cần định hướng mở rộng không gian phát triển theo cả chiều dọc, dọc theo trục lãnh thổ duyên hải và chiều ngang hướng ra hệ thống cảng biển, đồng thời thúc đẩy mở cửa vùng theo diện rộng nhằm tạo sự phát triển cân đối giữa các địa phương, qua đó hình thành cấu trúc lãnh thổ đa trung tâm, tạo nên các vùng sinh hoạt địa phương có tính liên kết cao, góp phần thúc đẩy phát triển đồng đều giữa các khu vực và hạn chế tình trạng tập trung quá mức vào các vùng đô thị lớn.

Trong quá trình đó, việc xây dựng chính sách quy hoạch lãnh thổ cần được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế quốc gia, đồng thời phải coi trọng và tuân thủ nghiêm túc Quy hoạch tổng thể quốc gia như một nền tảng pháp lý và định hướng lâu dài. Bên cạnh đó, cần đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông phục vụ công nghiệp quy mô lớn, phát triển mạng lưới giao thông cao tốc tổng hợp và hạ tầng giao thông theo mô hình mạng lưới kết nối liên vùng, đồng thời chú trọng phát triển hạ tầng thông tin hiện đại để hỗ trợ quá trình chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.

Song song với phát triển hạ tầng, cần kiến tạo môi trường cư trú có tính thẩm mỹ cao, thân thiện với con người, phù hợp với điều kiện tự nhiên và văn hóa bản địa, đồng thời lập quy hoạch lãnh thổ và hệ thống chính trị theo hướng phân quyền nhằm tăng cường tính chủ động, sáng tạo và hiệu quả trong quản lý địa phương, hướng đến mục tiêu quản lý lãnh thổ một cách bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống của người dân.

Phát triển kinh tế biển

Việt Nam là quốc gia sở hữu đường bờ biển dài hơn 3.260km cùng với hơn 3.000 hòn đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tạo nên một lợi thế địa lý đặc biệt để phát triển kinh tế biển, vốn được xem là động lực và tiền đề quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thúc đẩy đối ngoại và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phát triển kinh tế biển, đặc biệt trên phương diện quy hoạch và khai thác, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế khi các địa phương ven biển phát triển một cách riêng lẻ, thiếu sự điều phối và liên kết, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên, trong khi hệ thống cảng biển chưa được đồng bộ với mạng lưới logistics, nhiều cảng có công suất lớn nhưng lại thiếu kết nối hiệu quả với đường sắt, đường bộ và các trung tâm ICD, gây ra ách tắc trong vận chuyển và làm tăng chi phí, đồng thời công nghệ và nguồn nhân lực trong ngành biển vẫn còn lạc hậu, chưa hình thành được hệ sinh thái khoa học - công nghệ biển một cách đồng bộ, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và sụt lún đang gây thiệt hại nghiêm trọng cho hoạt động nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng ven biển, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực và đời sống dân sinh.

Với việc định hình không gian lãnh thổ gồm 34 tỉnh, thành phố và phần lớn các địa phương đều có biển, việc hướng ra biển cần được xác định là động lực chiến lược để thúc đẩy phát triển kinh tế biển theo hướng mạnh mẽ và bền vững hơn, trong đó cần tập trung vào các lĩnh vực dịch vụ cảng biển, vận tải, tài chính hàng hải và công nghệ cảng thông minh, đồng thời đẩy mạnh đầu tư vào tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và hệ thống điều phối logistics toàn cầu, kết hợp chặt chẽ giữa khai thác dầu khí ngoài khơi với bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu và điều chỉnh Quy hoạch không gian biển quốc gia sao cho phù hợp với thực tiễn địa giới hành chính và tiềm năng phát triển của từng tỉnh, thành phố sau khi được sắp xếp lại, thiết lập các cụm kinh tế biển liên vùng nhằm tăng cường hợp tác giữa các địa phương và vùng lãnh thổ, xây dựng các “thành phố đảo” và đô thị biển hiện đại, phát triển các cảng trung chuyển quốc tế như Lạch Huyện, Cái Mép - Thị Vải và hệ thống cảng nước sâu có khả năng kết nối vùng và quốc tế; đồng thời mở rộng các đặc khu du lịch biển gắn liền với bảo tồn sinh thái và văn hóa ven biển; tăng cường ngân sách đầu tư cho khoa học hải dương, công nghệ môi trường biển và cơ khí biển, áp dụng mô hình kinh tế biển xanh và tuần hoàn trong mọi lĩnh vực, phối hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng và an ninh, đặc biệt là triển khai mô hình “2 trong 1” tại các cảng biển, khu hậu cần và các đảo tiền tiêu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia.

Phát triển đô thị

Trong những năm qua, khu vực đô thị ngày càng thể hiện vai trò động lực, đầu tàu phát triển kinh tế - xã hội của các vùng và cả nước. Diện mạo đô thị cả nước thay đổi nhanh chóng. Việc xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch chung giúp các đô thị có định hướng phát triển tốt hơn, công tác quản lý kiến trúc đô thị được quan tâm; chương trình phát triển đô thị được triển khai tại một số đô thị lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng,... góp phần làm cho các đô thị có diện mạo khang trang, sạch sẽ hơn, hệ thống hạ tầng đầy đủ, tiện nghi hơn. Theo Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hóa cả nước tăng từ 30,5% năm 2010 lên đến 38,4% năm 2019. Năm 1999, Việt Nam có 629 đô thị và đến tháng 12/2020 có 862 đô thị, bao gồm 2 đô thị đặc biệt, 23 đô thị loại I, 31 đô thị loại II, 48 đô thị loại III, 90 đô thị loại IV và 668 đô thị loại V.  

Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đã xuất hiện những hạn chế, bất cập nhất định. Còn tập trung nhiều ở các thành phố lớn, khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, ven biển Bắc Trung Bộ còn ít đô thị. Nhiều nơi đô thị hóa còn “hình thức”, thiếu nền tảng sản xuất, việc làm chất lượng cao. Nhiều khu đô thị mới thiếu kết nối với sản xuất, chỉ là “đô thị để ở”, không tạo việc làm tại chỗ. Nhiều biệt thự, căn hộ vì nhiều nguyên nhân nên bị bỏ hoang, dẫn đến lãng phí về nguồn lực vật chất.

Một trong số những giải pháp trọng tâm để phát triển đô thị trong thời gian tới là phát triển hệ thống nhà ở một cách đồng bộ, quy củ, hiệu quả.

Đối với hệ thống nhà ở thương mại, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước không chỉ dừng lại ở việc xây dựng chiến lược quy hoạch và kế hoạch phát triển nhà ở theo từng thời kỳ, từng năm, mà còn phải tạo dựng một môi trường thuận lợi để thị trường hàng hóa này có thể phát triển một cách ổn định và hiệu quả, thông qua việc quy hoạch đất đai hợp lý, đặc biệt là quy hoạch nhà ở phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng, từng địa phương; bởi lẽ, sự phát triển của nhà ở thương mại tuy chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế trên thị trường nhưng không thể tách rời khỏi chính sách chiến lược phát triển nhà ở của quốc gia, vì nếu chỉ dựa vào cơ chế thị trường mà thiếu đi sự định hướng và điều tiết của Nhà nước thì sẽ dẫn đến hệ quả là việc sử dụng tài nguyên đất đai không hợp lý, gây ra tình trạng lãng phí và mất cân đối trong phát triển đô thị - nông thôn.

Trong khi đó, đối với lĩnh vực phát triển nhà ở xã hội, cần đặt trọng tâm vào việc hỗ trợ các đối tượng có thu nhập thấp, thu nhập trung bình và những người chưa có khả năng tạo lập chỗ ở, để họ có thể tiếp cận được với các loại hình nhà ở phù hợp, đồng thời phải gắn kết chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm đầy đủ các yếu tố về tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà ở xã hội, yếu tố về quan hệ phi lợi nhuận giữa các đơn vị đầu tư và cơ quan quản lý, cũng như yếu tố cam kết hỗ trợ từ phía Chính phủ nhằm tạo ra một hệ sinh thái phát triển nhà ở xã hội bền vững, công bằng và nhân văn.

Phát triển nông thôn mới

Phát triển nông thôn mới ở Việt Nam là một chương trình quốc gia nhằm thay đổi diện mạo và nâng cao đời sống người dân nông thôn thông qua việc cải thiện kinh tế, hạ tầng, xã hội và môi trường. Chương trình đã đạt được nhiều kết quả tích cực như tăng thu nhập, giảm nghèo, nâng cao hạ tầng và huy động sự tham gia của người dân. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức như tình trạng xuống cấp hạ tầng, thiếu nước sạch, chuyển dịch lao động và các vấn đề về bản sắc văn hóa.

Trong bối cảnh mới đang hình thành, công cuộc xây dựng nông thôn mới cần được định hướng phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, xanh, sinh thái và văn minh, đồng thời phải gắn kết chặt chẽ với quá trình đô thị hóa nhằm bảo đảm sinh kế bền vững cho người dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và duy trì ổn định xã hội. Nông thôn ngày nay không chỉ đơn thuần là không gian sản xuất nông nghiệp mà còn là nơi cư trú chất lượng của người dân, là trung tâm của các hoạt động du lịch sinh thái, dịch vụ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đồng thời là vùng lưu giữ bản sắc văn hóa và hệ sinh thái đặc trưng của địa phương.

Việc tiếp tục triển khai hiệu quả chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới cần tập trung vào nâng cao chất lượng chiều sâu, gắn với các yếu tố như thu nhập, môi trường, văn hóa và chuyển đổi số, hướng đến mục tiêu đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu tại các vùng trung du, miền núi, biên giới và hải đảo; trong đó, cần thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng xanh, tuần hoàn và thông minh, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua việc xây dựng hệ thống dữ liệu cây trồng, vật nuôi và đất đai, đồng thời tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân để hình thành chuỗi giá trị nông sản bền vững.

Song song với đó, cần phát triển nhà ở nông thôn theo tiêu chí an toàn, bền vững, tiện nghi và thân thiện với môi trường, bảo tồn các lễ hội truyền thống, làng nghề và không gian văn hóa vùng miền, xây dựng hệ giá trị con người nông thôn mới dựa trên các phẩm chất trung thực, trách nhiệm, sáng tạo và hợp tác, hỗ trợ khởi nghiệp nông thôn và thúc đẩy phát triển kinh tế số tại khu vực này, mở rộng các loại hình du lịch nông nghiệp và du lịch cộng đồng, đồng thời phát triển nghề phụ, làng nghề, dịch vụ logistics và các dịch vụ nông nghiệp đa dạng.

Ngoài ra, cần tái thiết kế hệ thống thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt cũng như chất thải nông nghiệp một cách hiệu quả, quản lý tài nguyên nước, đất và rừng theo hướng sinh thái, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp; phát huy vai trò của người dân và cộng đồng trong công tác quản lý, giám sát xây dựng nông thôn mới; đồng thời nâng cao năng lực quản trị phát triển cho đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn bản nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình chuyển đổi nông thôn trong thời kỳ mới.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin