Phân tích SWOT về đào tạo nguồn nhân lực ngành xuất bản thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số

CT&PT - Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội.

1. Phân tích ma trận SWOT về đào tạo nguồn nhân lực ngành Xuất bản Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Điểm mạnh - thuận lợi trong đào tạo nguồn nhân lực ngành Xuất bản

Một là, đã xây dựng được hệ thống đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ đại học, sau đại học và các khóa đào tạo nâng cao. Ở Việt Nam, hiện nay, có 3 cơ sở đào tạo xuất bản, đó là khoa Xuất bản - Phát hành của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (đào tạo chuyên ngành Kinh doanh xuất bản phẩm), khoa Xuất bản Học viện Báo chí và Tuyên truyền (đào tạo chuyên ngành Biên tập - Xuất bản và Xuất bản điện tử). Trong đó, khoa Xuất bản Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở duy nhất đào tạo cán bộ biên tập xuất bản ở 03 nước Đông Dương bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia.

Hai là, chương trình đào tạo được chuẩn hóa, tiệm cận với yêu cầu của quá trình chuyển đổi số. Điển hình là, chương trình đào tạo theo mô hình CDIO của khoa Xuất bản Học viện Báo chí và Tuyên truyền. CDIO là một mô hình cải tiến chương trình đào tạo, thu hẹp khoảng cách giữa cơ sở đào tạo và thị trường lao động, đề xướng các cải cách giáo dục để người học có được sự phát triển toàn diện các kiến thức, kỹ năng cá nhân, nghề nghiệp và nhanh chóng thích ứng môi trường làm việc chuyên nghiệp luôn luôn thay đổi. Theo cách tiếp cận CDIO, khi xây dựng và nâng cấp các chương trình đào tạo phải tuân thủ các quy trình chặt chẽ, từ khâu xây dựng chuẩn đầu ra, thiết kế khung chương trình, chuyển tải khung chương trình vào thực tiễn và đánh giá kết quả học tập của sinh viên cũng như toàn bộ Chương trình. Mô hình đào tạo CDIO nhằm đào tạo sinh viên biết bao quát việc hình thành ý tưởng (Conceive), thiết kế (Design), triển khai (Implement) và vận hành (Operate) các sản phẩm và hệ thống có tính phức tạp, có giá trị gia tăng, trong môi trường hiện đại, làm việc theo nhóm.

Ba là, cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục phục vụ đào tạo nhân lực ngành xuất bản được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nhân lực xuất bản được đầu tư, nâng cấp.

Các nhà trường đào tạo ngành Xuất bản đều cho sinh viên sử dụng phần mềm tiêu chuẩn công nghiệp để khám phá nhiều phương pháp thiết kế biên tập, từ kể chuyện bằng văn bản và hình ảnh, đến thành thạo kiểu chữ, đóng sách và hoàn thiện bản in chuyên nghiệp, cuối cùng đến trực quan hóa dữ liệu phức tạp và đồ họa thông tin (infographics). Ngay trong quá trình học tập, sinh viên sẽ được cộng tác với rất nhiều đối tác trong ngành xuất bản, cũng như tham gia các cuộc thi thiết kế.

Chẳng hạn, trong chương trình đào tạo chuyên ngành Xuất bản điện tử của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, sinh viên sau khi học môn Xuất bản sách điện tử, Xuất bản sách nói đã được Khoa tổ chức đi kiến tập nghề nghiệp tại Công ty Waka - doanh nghiệp xuất bản, phân phối sách điện tử có bản quyền hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Sinh viên được trải nghiệm thực tế, tìm hiểu quy trình làm sách nói, sách điện tử; được trực tiếp tham gia các khâu làm sách nói như dựng kịch bản, thu âm, biên tập âm thanh.

Bốn là, chất lượng giáo dục và đào tạo có những tiến bộ. Trên thực tế, đầu ra của sinh viên Xuất bản rất đa dạng, rộng mở. Có nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường làm biên tập viên ở các báo, tạp chí hoặc các công ty sách, công ty truyền thông. Nhìn chung, sinh viên xuất bản tốt nghiệp được các đơn vị sử dụng lao động tin tưởng và đánh giá cao.

Năm là, đội ngũ giảng viên ngành Xuất bản phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Giảng viên được chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và khả năng nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, giảng viên cũng được tham quan hoạt động tại các đơn vị kinh doanh/nhà xuất bản để nắm bắt được sự chuyển động của thị trường xuất bản phẩm, các vấn đề đặt ra trong thực tiễn, từ đó góp phần giải quyết các vấn đề đó ở góc độ của nhà cung cấp nhân lực, gắn kết giữa lý luận và thực tiễn. Bên cạnh đó, nhà trường còn mời các giảng viên ở các trường đại học khác, các chuyên gia trong lĩnh vực xuất bản cùng tham gia giảng dạy các học phần trong chương trình đào tạo hoặc nói chuyện theo chuyên đề, tham gia các hội thảo, toạ đàm chuyên môn cùng với giảng viên và sinh viên của khoa...

Điểm yếu trong đào tạo nguồn nhân lực ngành Xuất bản

Một là, chất lượng, hiệu quả đào tạo còn thấp so với yêu cầu.

Chương trình đào tạo chuyên ngành xuất bản ở nước ta mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu của thực tế, nghĩa là mới làm tốt việc đào tạo nghề xuất bản theo hướng truyền thống. Bên cạnh đó, hệ thống đào tạo, cơ sở vật chất, kỹ thuật, máy móc ở các cơ sở đào tạo còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Hơn nữa chủ yếu các trường vẫn sử dụng phương thức đào tạo truyền thống, nặng về lý thuyết, ít thực hành, thiếu sự gắn kết với thực tiễn khiến khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn hay nói cách khác nguồn nhân lực xuất bản sau khi đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà xuất bản.

Hai là, đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học. Theo kết quả khảo sát được công bố chính thức của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội năm 2023, số sinh viên trúng tuyển nhập học ngành Kinh doanh xuất bản phẩm là 99, nhưng số sinh viên tốt nghiệp chỉ là 37. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm gần như dao động ở mức 90%. Tuy nhiên, dựa trên báo cáo tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp, năm 2020 số sinh viên được khảo sát là 49, nhưng chỉ có 11 sinh viên là có việc làm đúng ngành đào tạo, còn số liệu năm 2021 tương ứng là 10/32 sinh viên làm đúng ngành. Còn lại chiếm hơn 60% là làm những ngành gần hoặc không liên quan đến chuyên ngành đào tạo. Còn dựa trên một điều tra không chính thức tại các công ty phát hành sách, thì lượng sinh viên tốt nghiệp ngành Kinh doanh xuất bản phẩm hay Xuất bản làm việc tại các đơn vị này không chiếm đa số.

Ba là, rào cản về chuyển đổi số trong các cơ sở đào tạo nói chung và đào tạo nguồn nhân lực xuất bản nói riêng. Hạ tầng mạng, trang thiết bị công nghệ thông tin còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số.

Số hóa, xây dựng, cập nhật học liệu số, thẩm định, chia sẻ học liệu số đòi hỏi sự đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng như tài chính để bảo đảm kho học liệu số đầy đủ, đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu, tham khảo của sinh viên ngành xuất bản.

Cơ hội - động lực đào tạo nguồn nhân lực ngành Xuất bản trong bối cảnh chuyển đổi số

Thứ nhất, Việt Nam đã và đang chuyển đổi số trong giáo dục bằng hàng loạt các chính sách đã được ban hành. Đặc biệt, công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành xuất bản ngày càng được quan tâm.

Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về “Nâng cao chất lượng toàn diện hoạt động xuất bản”, xác định: Xây dựng kế hoạch dài hạn đào tạo, bồi dưỡng và phát triển lực lượng, đội ngũ của ngành xuất bản, đảm bảo về quan điểm chính trị và chất lượng nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, các tác giả, cộng tác viên trong cả ba khâu xuất bản, in và phát hành ngoài quốc doanh.

Quy hoạch phát triển xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực được xác định: Xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ chuyên ngành xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm.

Thứ hai, trong bối cảnh chuyển đổi số, các trường đại học nói chung và các trường đào tạo ngành Xuất bản nói riêng có điều kiện gia tăng cơ hội hợp tác cùng doanh nghiệp và triển khai hoạt động trong giảng dạy gắn liền với nhu cầu sử dụng nhân lực từ các doanh nghiệp. Từ đó, các trường sẽ kịp thời nắm bắt các thông tin, cập nhật kiến thức, điều chỉnh nội dung, chương trình, dự báo các ngành nghề mới theo xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất phù hợp với sự phát triển của đời sống xã hội.

Thách thức - rào cản trong đào tạo nguồn nhân lực ngành Xuất bản trong bối cảnh chuyển đổi số

Thứ nhất, thách thức về cơ chế tài chính đối với hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngành xuất bản. Hiện nay, thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học đang tồn tại các bất cập, hạn chế như: cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước chưa phù hợp với cơ chế đặc thù của đào tạo ngành xuất bản.

Thứ hai, chuyển đổi số trong giáo dục - đào tạo nói chung và trong đào tạo xuất bản nói riêng được kỳ vọng sẽ giúp tối đa hóa hiệu quả đào tạo. Tuy nhiên nếu bài toán về hạ tầng mạng, thiết bị và giải pháp công nghệ không được đáp ứng, bài toán về chuyển đổi năng lực của giảng viên không được giải quyết, trải nghiệm học tập “số” đối với cả giảng viên và người học có thể trở thành thảm họa. Một loạt các nguy cơ hiển hiện như hành vi học tập có thể bị lệch lạc, hoạt động giáo dục không được kiểm soát; chất lượng giáo dục bị thả lỏng…

Thứ ba, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo cán bộ biên tập còn nhiều hạn chế. Cán bộ xuất bản nước ta chưa được tiếp cận nhiều với khoa học nghiệp vụ xuất bản của các nước tiên tiến. Việc hợp tác, liên kết đào tạo và nghiên cứu với các nước có nền xuất bản phát triển trong khu vực và thế giới của nước ta còn rất hạn chế. Đơn cử, Học viện Báo chí và Tuyên truyền mới chỉ hợp tác đào tạo với Đại học Truyền thông Bắc Kinh, Đại học Tổng hợp Viên, Đại học Hamburg, Đại học Middlesex, Đại học Nữ sinh Sookmyung (Hàn Quốc) về đào tạo truyền thông, chưa hợp tác đào tạo về biên tập xuất bản. Trong danh mục hợp tác đào tạo cán bộ khoa học với các nước bằng ngân sách nhà nước (theo Đề án 322) không có danh mục đào tạo ngành xuất bản.

2. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Xuất bản Việt Nam thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số

Cập nhật điều chỉnh, bổ sung mục tiêu và đổi mới chương trình đào tạo phù hợp với những thay đổi và phát triển của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp xuất bản, phát hành trong hoạt động thực tiễn và xu hướng phát triển chung của ngành công nghiệp xuất bản thế giới.

Xây dựng nội dung, mục tiêu chương trình đào tạo phải gắn với chuẩn đầu ra và vị trí việc làm của nhà tuyển dụng. Một mặt, bổ sung những môn học/ học phần mới vào chương trình đào tạo, thay thế cho những môn học/ nghiệp vụ cũ, lạc hậu không còn đáp ứng trong thực tiễn công tác. Mặt khác, trong từng môn học/học phần cụ thể của chương trình đào tạo cần thường xuyên cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng mới cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn xuất bản. Các cơ sở đào tạo cần gia tăng số tiết học thực hành ở các đơn vị xuất bản, với công nghệ thông tin và thiết bị ứng dụng hiện đại. Mục tiêu của đào tạo xuất bản hiện nay là đào tạo biên tập viên làm công tác biên tập trong môi trường số hóa. Cho nên, vấn đề đào tạo kỹ năng làm việc thực tế là một ưu tiên trong nội dung đào tạo.

Cần đổi mới phương pháp dạy và học cũng như mục tiêu giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng có chuyên ngành xuất bản. Đào tạo về xuất bản hiện đại song hành với xuất bản truyền thống, tức là đào tạo đồng thời, lồng ghép giữa quy trình xuất bản truyền thống và xuất bản điện tử.

Trong chương trình đào tạo cần chú trọng chương trình thực tập nghề nghiệp cho sinh viên. Xây dựng nội dung, yêu cầu của chương trình thực tập bảo đảm tính khoa học, phù hợp gắn kết mục tiêu đào tạo của nhà trường với mục tiêu tuyển dụng của doanh nghiệp; bảo đảm thời lượng của chương trình thực tập, để người học có đủ thời gian học/thực hành thực tế công việc chuyên môn; thao tác, rèn luyện, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ trong thực tiễn.

Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giảng viên giảng dạy chuyên ngành xuất bản. Họ là trung tâm có tính quyết định mọi hoạt động của nhà trường (từ việc xây dựng chương trình đào tạo, xác định đúng mục tiêu đào tạo, thiết kế nội dung chương trình đào tạo sát hợp với thực tiễn nhu cầu vị trí việc làm xã hội cần)… Giảng viên phải luôn có ý thức tự học hỏi, trau dồi và cập nhật kiến thức, nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn bên cạnh việc gìn giữ phẩm chất đạo đức của nhà giáo…

Hoàn thiện cơ sở hạ tầng đồng bộ, thiết bị công nghệ thông tin thiết thực phục vụ dạy - học.

Thúc đẩy phát triển học liệu số (phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo, nghiên cứu khoa học) gắn với việc thẩm định nội dung, kết nối, chia sẻ học liệu giữa các nhà trường; hình thành kho học liệu số, học liệu mở dùng chung toàn ngành, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, học tập suốt đời, tiếp tục đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên các nền tảng số.

Xây dựng cơ sở thực hành hiện đại của ngành đào tạo. Một nhà xuấtbản/một nhà sách chuẩn kiểu mẫu được trang bị các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ việc thực hành, tác nghiệp trực tiếp các nghiệp vụ đầu vào, đầu ra và tổ chức quản lý của quy trình hoạt động xuất bản cho sinh viên của ngành học; Liên kết chặt chẽ với các nhà sách/công ty/doanh nghiệp sách thực hiện đào tạo mảng thực hành nghiệp vụ cho từng môn học song hành với các chương trình thực tập nghề nghiệp trong chương trình đào tạo (bao gồm thực tập giữa khóa và thực tập tốt nghiệp).

Tăng cường gắn kết giữa nhà trường và các đơn vị xuất bản để đào tạo thực tiễn cho người học.

Sự phối hợp thường xuyên giữa nhà trường và các đơn vị xuất bản không chỉ trong lĩnh vực hỗ trợ đội ngũ giảng dạy, kinh phí đào tạo, mà còn cả ở việc thực hiện nội dung chương trình đào tạo, tiếp nhận và sử dụng cán bộ được đào tạo… Điều đó sẽ mang lại hiệu quả cho các bên liên quan. Về phía sinh viên, họ có thể tiếp cận công việc nhanh chóng hơn, làm việc tốt hơn, thành công hơn. Về phía đơn vị tuyển dụng, giảm thời gian đào tạo lại hoặc không cần đào tạo lại, tuyển đúng người vào đúng vị trí công việc. Về phía nhà trường, từng bước khẳng định uy tín thương hiệu trong lĩnh vực giáo dục.

Hợp tác quốc tế trong đào tạo ngành xuất bản, từ việc chuẩn hóa chương trình đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ giảng dạy và các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ đào tạo khác… Thực hiện trao đổi giảng viên, sinh viên giữa các cơ sở đào tạo trong nước và ngoài nước; giúp các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước có thể trao đổi đào tạo sinh viên trong cùng khóa học hoặc đào tạo tiếp ở những bậc học cao hơn của ngành đào tạo; Mở rộng cơ hội học tập và nghiên cứu cho người học ở môi trường quốc tế cũng như cơ hội việc làm hấp dẫn cho người học sau khi tốt nghiệp trên thị trường lao động trong và ngoài nước.

Huy động nguồn lực cho quá trình chuyển đổi số trong đào tạo nguồn nhân lực xuất bản: Phối hợp các nguồn kinh phí của các chương trình, nguồn ngân sách, nguồn thường xuyên, xã hội hóa... cho quá trình chuyển đổi số giáo dục, phù hợp với mục tiêu của chuyển đối số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; Khuyến khích, huy động đầu tư của doanh nghiệp đối với các hoạt động của chuyển đổi số trong đào tạo nguồn nhân lực xuất bản, tạo cơ chế chia sẻ thông tin và thu hút nguồn lực từ doanh nghiệp…


TS. NGUYỄN THỊ OANH

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin