1. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số ở vùng Đông Nam Bộ hiện nay qua phân tích SWOT
Vùng Đông Nam Bộ có diện tích hơn 23 nghìn km2, chiếm 7,1% diện tích cả nước; dân số khoảng 18,8 triệu người, chiếm 18,9% dân số cả nước. Vùng có một thành phố trực thuộc Trung ương là Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh. Các tỉnh, thành phố trong vùng không ngừng đổi mới, phát triển và ngày càng năng động, nhờ đó giúp tốc độ tăng trưởng và tổng sản phẩm GRDP của vùng luôn ở mức cao nhất trong cả nước. Năm 2022, GRDP của vùng Đông Nam Bộ chiếm khoảng 31%, xuất khẩu đóng góp khoảng 35%, thu ngân sách khoảng 38% cả nước; GRDP bình quân đầu người của vùng gấp 1,64 lần cả nước; tỷ lệ đô thị hóa của vùng là 66,5%, bằng 1,8 lần trung bình cả nước1. Qua đó, có thể khẳng định, Đông Nam Bộ là vùng có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; đồng thời là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của khu vực phía Nam.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, chuyển đổi số không chỉ là xu hướng phổ biến mà còn là yêu cầu tất yếu, khách quan đối với mỗi quốc gia và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhấn mạnh: “Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng”. Theo đó, đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng chuyển đổi số hiện nay là việc làm vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Những thế mạnh/thuận lợi (Strengths)
Một là, kinh tế phát triển, tập trung nhiều lao động
Với vị trí địa kinh tế thuận lợi, hệ thống giao thông đa dạng bao gồm đường sông, đường sắt, đường biển và đường hàng không kết nối với các vùng trong cả nước, khu vực và quốc tế, vùng Đông Nam Bộ có điều kiện và lợi thế để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như: lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; công nghiệp chế biến, chế tạo; kinh tế số; tài chính - ngân hàng; bất động sản…, dẫn đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất cả nước với nhiều ngành, nghề sản xuất, dịch vụ hiện đại, đóng góp quan trọng vào hội nhập quốc tế, đòi hỏi vùng Đông Nam Bộ phải có nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ yêu cầu phát triển.
Trong những năm gần đây, nhờ sự quan tâm, chú trọng của chính quyền địa phương, nhịp độ phát triển kinh tế của vùng khá cao; môi trường kinh doanh ổn định; năng lực sản xuất, trình độ khoa học - kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp có bước phát triển vượt trội so với các vùng khác, đóng góp đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, vùng có nhiều khu công nghiệp phát triển nhanh, hiệu quả; khu vực dịch vụ cũng phát triển mạnh.
Hai là, nguồn nhân lực dồi dào
Vùng Đông Nam Bộ có mật độ dân số đứng thứ hai cả nước (778 người/km2), tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao và được xếp vào nhóm có tỷ lệ “dân số vàng”. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo của vùng là 29,5% (đứng thứ hai trong sáu vùng kinh tế - xã hội, chỉ sau vùng đồng bằng sông Hồng với 32,6%). Tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên của cả vùng chiếm khoảng 6,6%2. Do tốc độ gia tăng dân số nhanh, hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có mật độ đông dân nhất Việt Nam với 4.375 người/km2, cao gấp 14,73 lần cả nước (297 người/km2)3. Theo Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố là khu vực tập trung nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cùng sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế, do đó nhu cầu lớn về lực lượng lao động là tất yếu.
Lực lượng lao động của vùng bao gồm cả nguồn lao động ở trong vùng và từ các tỉnh khác đến, phần lớn có trình độ chuyên môn cao, năng động, sáng tạo, dễ dàng thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường. Trong vùng còn tập trung nhiều trường đại học, cơ sở dạy nghề, có lực lượng trí thức đông đảo và tâm huyết. Tốc độ đô thị hóa trong vùng cũng khá cao và nhanh so với cả nước. Đặc biệt, vùng có Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, thương mại lớn nhất cả nước, là nơi hội tụ nền văn hóa của nhiều dân tộc trong nước và là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước, nhất là khu vực phía Nam.
Ba là, định hướng phát triển đúng đắn của các địa phương
Cơ cấu kinh tế của vùng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ có lợi thế so sánh, tạo ra tỷ lệ giá trị gia tăng cao. Ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đầu tư đổi mới công nghệ, nhóm ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao và trung bình cao tăng bình quân khoảng 10%/năm4. Cơ cấu kinh tế định hướng công nghiệp - dịch vụ đã góp phần cải thiện thu nhập của người lao động. Xét về cơ cấu thu nhập, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh là hai tỉnh đứng đầu vùng Đông Nam Bộ. Đây là hai địa phương có tỷ lệ đóng góp cao về công nghiệp (Bình Dương) và dịch vụ (Thành phố Hồ Chí Minh) vào GRDP của vùng. Trong khi đó, Bình Phước và Tây Ninh có đóng góp khá cao về nông, lâm nghiệp, thủy sản. Cụ thể, với lợi thế trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh Bình Phước hiện đang đẩy mạnh năng suất lao động trong nông nghiệp, trong đó năm 2023 khu vực nông - lâm - thủy sản đạt trên 17.500 tỷ đồng, tăng 10,25%, đóng góp 3,21 điểm phần trăm vào tăng trưởng GRDP của tỉnh5. Theo đó, nguồn lực lao động của tỉnh cũng có sự chuyển dịch.
Bốn là, đào tạo nguồn nhân lực hiệu quả
Thống kê trong năm học 2020 - 2021, toàn vùng có 7.871 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên. Đến tháng 6/2022, toàn vùng có 57 trường đại học và 316 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chủ yếu tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh, đào tạo các ngành, nghề trọng điểm, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đáp ứng yêu cầu về nguồn lao động chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của vùng2… Cụ thể:
Trong thời gian qua, nhiều địa phương trong vùng đã quan tâm, chú trọng thực thi các chính sách nhằm phát triển giáo dục và đào tạo, tiêu biểu là tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tỉnh Đồng Nai: Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tăng cường hợp tác với các trường đại học trong vùng trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, tư vấn và chuyển giao công nghệ. Đặc biệt, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác nhằm mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực kinh tế chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn tới.
Tỉnh Bình Dương: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ XI đã thống nhất mục tiêu tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao, góp phần phát triển thành phố Bình Dương theo hướng thông minh, văn minh, hiện đại. Đặc biệt, tỉnh chú trọng gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực với việc chuyển đổi số toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, xác định việc xây dựng nguồn “nhân lực số” là một trong những nhiệm vụ trọng yếu.
Thành phố Hồ Chí Minh: Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 140/2017/NĐ-CP, ngày 05/12/2017 về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh tuyển dụng được một số viên chức từ nguồn sinh viên xuất sắc. Các sinh viên trúng tuyển là những nhân tố tiên phong góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Thành phố Hồ Chí Minh, bảo đảm chính sách trọng dụng nhân tài, tạo nguồn xây dựng nhân lực khu vực công có chất lượng, đáp ứng tốt về chuyên môn, kỹ năng và thái độ để phục vụ người dân.
Quán triệt thực hiện Nghị quyết số 54/2017/QH14, ngày 24/11/2017 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành Phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành các nghị quyết, quyết định về thu hút chuyên gia, nhà khoa học trong 12 lĩnh vực; tập trung đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao trong các lĩnh vực: công nghệ thông tin, truyền thông và trí tuệ nhân tạo…; đồng thời, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo phổ thông.
Trong bối cảnh kỷ nguyên số và toàn cầu hóa, nhất là trong giai đoạn triển khai thực hiện Nghị quyết số 31-NQ/TW, ngày 30/12/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết số 98/2023/QH15, ngày 24/6/2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, với nhiều công việc mới và khó, Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng, phát triển và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thành phố.
Những điểm yếu/khó khăn (Weaknesses)
Một là, tính liên kết vùng còn yếu
Mặc dù quy mô GRDP của vùng Đông Nam Bộ lớn nhất cả nước (chiếm 30,2% GDP), GRDP bình quân đầu người đạt 166 triệu đồng6 nhưng vùng Đông Nam Bộ chủ yếu phát triển theo thế mạnh của từng địa phương, mà chưa phát triển đồng bộ. Nguồn nhân lực chất lượng cao chủ yếu tập trung ở các địa phương có tốc độ tăng trưởng nhanh, mạnh và có chính sách thu hút nhân lực tốt như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương…
Do đó, liên kết vùng giữa các địa phương trong đào tạo nguồn nhân lực, liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường, cơ sở đào tạo là yêu cầu đặt ra đối với vùng Đông Nam Bộ. Cụ thể đối với ngành logistics, năm 2022, vùng có nguồn nhân lực hơn 217.000 người, chiếm khoảng 46,6% tổng nguồn nhân lực làm dịch vụ logistics của cả nước. Trong đó, phần lớn nguồn nhân lực tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 78% nguồn nhân lực của vùng7. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát, hầu hết nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực logistics chưa được đào tạo một cách chính quy, chủ yếu thông qua kinh nghiệm.
Do sự gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo còn lỏng lẻo, công tác dự báo nhu cầu lao động còn hạn chế, dẫn đến tình trạng “dư thừa” sinh viên tốt nghiệp của một số ngành, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ (nhu cầu chỉ khoảng 17% so với nguồn cung). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo.
Hai là, số lượng nhân lực còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu
Khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa đóng góp đúng mức vào việc thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng; nguồn nhân lực chưa làm chủ được công nghệ cao, cốt lõi, công nghệ nguồn trong những ngành chủ lực. Công nghiệp phát triển nhanh nhưng thiếu bền vững, chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp, do đó, giá trị gia tăng thấp; công nghiệp phụ trợ phát triển chậm; phân bố khu chế xuất, khu công nghiệp chưa thực sự hợp lý, đây là một trong những nguyên nhân khiến nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được tốc độ phát triển của các địa phương trong vùng, đặc biệt, nhân lực mảng chuyển đổi số hiện đang thiếu khoảng 30% so với nhu cầu.
Ba là, chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng của lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản nhìn chung còn thấp. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp nghề trở lên chỉ chiếm 7,4% đối với vùng Đông Nam Bộ và 2,21% đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long8. Phần lớn lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản là lao động phổ thông, giản đơn, làm việc dựa trên kinh nghiệm, mang tính thời vụ, thiếu lao động có tay nghề cao.
Lao động còn thiếu kỹ năng và năng lực hành nghề, tỷ lệ lao động chưa được công nhận về kỹ năng nghề quốc gia còn chiếm tỷ lệ lớn. Nhiều sinh viên tốt nghiệp không kiếm được việc làm phù hợp với chuyên môn đào tạo, do chưa đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng và thị trường lao động.
Lực lượng lao động trên địa bàn chưa đáp ứng được yêu cầu lao động tại địa phương, nhất là ở tứ giác công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu - Bình Dương, trong khi đó một lượng lớn lao động từ các tỉnh thành khác đã đến vùng làm việc, tập trung chủ yếu tại các khu công nghiệp. Đặc biệt, tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương, lao động ngoại tỉnh chiếm đến 90% lực lượng lao động, song lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 31%, trong đó qua đào tạo nghề chiếm 23%9.
Cơ hội (Opportunities)
Một là, kết quả của quá trình đào tạo đúng hướng
Hằng năm, vùng đào tạo trên 70.000 sinh viên và có 6.000 học viên, nghiên cứu sinh tốt nghiệp, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng. Tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp đạt gần 87%. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đạt gần 30% (đứng thứ hai trong 6 vùng kinh tế - xã hội, chỉ sau đồng bằng sông Hồng). Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên của cả vùng khoảng 7%10.
Với vai trò là đầu tàu kinh tế, trung tâm khoa học và công nghệ lớn nhất của cả nước và vùng Đông Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh phấn đấu đến năm 2025 sẽ nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lên 87% trong tổng số lao động đang làm việc; đến năm 2030 đạt 89%. Tổ chức kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế và khu vực ASEAN đối với ít nhất 10% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập vào năm 2025 và ít nhất 30% vào năm 203011.
Hai là, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
Trong xu thế chuyển đổi từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (dựa trên sản xuất số) sang cuộc Cách mạng công nghiệp 5.0 (xã hội số), vùng Đông Nam Bộ là một trong hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với khu công nghệ cao và trung tâm tin học chuyên đào tạo và sản xuất phần mềm cho cả nước, có hệ thống đào tạo và các trung tâm nghiên cứu khoa học, trung tâm y tế trình độ cao, bảo đảm cung cấp dịch vụ đào tạo và dịch vụ y tế cho toàn vùng. Với lợi thế đó, vùng Đông Nam Bộ được quy hoạch đến năm 2030 và những năm tiếp theo theo hướng lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển, có cơ cấu kinh tế hiện đại, trong đó tập trung vào phát triển các cụm ngành: (1) Công nghiệp và xây dựng (chiếm 45,3% GRDP), riêng công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 33%; (2) Các ngành dịch vụ chất lượng cao (chiếm 41,7% GRDP); (3) Nông, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 2,3% GRDP). Cơ cấu lực lượng lao động gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào công nghiệp và dịch vụ.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại nhiều cơ hội việc làm
Với lợi thế nhiều khu công nghiệp, vùng Đông Nam Bộ thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư. Cùng với đó là nhu cầu phát triển thị trường, thúc đẩy các doanh nghiệp tìm hướng đầu tư, mở rộng thị trường ra nước ngoài. Theo đó, vùng có cơ hội mở rộng thị trường lao động cả ở trong vùng và trên cả nước.
Bốn là, định hướng đúng đắn về ngành và lĩnh vực trọng điểm
Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khánh thành Trung tâm Điện tử, vi mạch bán dẫn (ESC) tại Khu công nghệ cao thành phố Thủ Đức. Với sự ra đời của trung tâm này, Thành phố Hồ Chí Minh hướng đến mục tiêu đưa thành phố Thủ Đức trở thành trung tâm thiết kế vi mạch của thế giới. Theo đó, định hướng lâu dài là các doanh nghiệp phải chuyển dịch từ gia công, lắp ráp sang tự phát triển và sản xuất được con chip trong nước nhằm nâng cao giá trị gia tăng. Điều đó đồng nghĩa với việc nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực điện tử, bán dẫn phải được ưu tiên phát triển để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Thách thức (Threats)
Một là, thách thức từ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dẫn đến sự ra đời của nhiều ngành, nghề mới, tác động đến cung - cầu lao động cũng như sự chuyển dịch cơ cấu nguồn lao động tại Việt Nam nói chung và vùng Đông Nam Bộ nói riêng. Theo đó, lực lượng lao động trẻ và chi phí lao động thấp không còn là lợi thế của vùng nếu lực lượng này không đổi mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là khu vực có tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao nhất nước, song nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện vẫn đang là “bài toán nan giải” của khu vực này, với sự “lệch pha” giữa cung và cầu: cung ít - cầu nhiều hoặc cầu ít - cung nhiều.
Hai là, cơ cấu dân số thâm dụng lao động
Dựa trên cơ cấu và tỷ lệ lao động, có thể thấy, vùng Đông Nam Bộ thuộc nhóm cơ cấu dân số thâm dụng lao động, điển hình là tỉnh Bình Dương - là một tỉnh công nghiệp hóa của cả nước, song nền kinh tế vẫn cơ bản là nền sản xuất có tỷ lệ thâm dụng lao động khá cao. Đây là thách thức lớn, đòi hỏi tỉnh phải có giải pháp kịp thời nhằm không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đưa Bình Dương trở thành trung tâm công nghiệp hiện đại và đô thị thông minh trong tương lai gần.
Ba là, nguy cơ dân số già
Với tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở mức 9,3% năm 202113 và đang có xu hướng suy giảm cho thấy thách thức đối với Việt Nam, nhất là khi dân số bắt đầu ra khỏi vùng dân số vàng và chuyển sang vùng dân số già. Vùng Đông Nam Bộ không phải là trường hợp ngoại lệ. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của vùng tăng nhẹ trong giai đoạn 2017 - 2019, sau đó giảm dần vào năm 2020 và 2021. Đặc biệt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ nằm trong nhóm thấp, chỉ cao hơn vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Trong khi đó, tuổi thọ duy trì ổn định theo hướng tăng. Thách thức của vấn đề già hóa dân số đối với lực lượng lao động là tất yếu, nhất là khi tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm trong những năm gần đây.
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của vùng Đông Nam Bộ đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số hiện nay
Một là, chú trọng phát triển vùng trên cơ sở liên kết và xây dựng không gian chung về đào tạo nguồn nhân lực, thị trường lao động…, trong đó lấy Thành phố Hồ Chí Minh làm trung tâm. Đồng thời, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhà trường, cơ sở đào tạo trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm cân bằng cung - cầu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có phát triển kinh tế.
Hai là, mỗi địa phương trong vùng cần cụ thể hóa đề án phát triển nguồn nhân lực đối với từng lĩnh vực và dự án phát triển; xác định nhu cầu đào tạo, thu hút nguồn nhân lực gắn với những cụm ngành nổi bật cũng như lợi thế của địa phương. Đồng thời, tích cực quan tâm đến khả năng lồng ghép kinh tế số, kinh tế tuần hoàn (tính liên vùng, liên ngành, liên lĩnh vực) vào quy hoạch vùng, địa phương.
Ba là, phát triển ổn định, bền vững thị trường lao động trên cơ sở khảo sát và đánh giá nhu cầu tuyển dụng lao động tại vùng. Từ đó, đưa ra dự báo về nguồn nhân lực, đồng thời có kế hoạch đáp ứng nhu cầu tuyển dụng trong các lĩnh vực. Trong đó, chú trọng dự báo nhu cầu về đào tạo nghề nghiệp, đặc biệt là ngành, nghề khoa học - kỹ thuật công nghệ, ưu tiên công nghệ thông tin, công nghệ mới, công nghệ cao.
Bốn là, ngành giáo dục phải phát huy tối đa nội lực. Theo đó, mỗi tỉnh, thành phố trong vùng cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm: quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục cũng như chất lượng giáo dục tại các cấp học. Đồng thời, đẩy nhanh thực hiện việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị, thay đổi phương thức giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Năm là, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư; doanh nghiệp, người sử dụng lao động cần tích cực tham gia hoạt động đào tạo, phát triển kỹ năng nghề theo hướng phối hợp với các địa phương trong vùng, bảo đảm phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Bên cạnh đó, chú trọng thu hút các nhà khoa học, nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài và đặc biệt là nguồn lực trong nước.
Sáu là, hằng năm, vùng Đông Nam Bộ cần định kỳ tổng kết lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua các báo cáo thường niên của vùng, từ đó kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm, tạo cơ sở để điều chỉnh các chính sách đã có và xây dựng các chính sách mới về nguồn nhân lực chất lượng cao trong vùng.
1. Nguyễn Hữu Tịnh: “Phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ: Tiềm năng, lợi thế và một số đề xuất trong thời gian tới”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo online, ngày 22/3/2024, https://kinhtevadubao. vn/phat-trien-kinh-te-vung-dong-nam-bo-tiem-nang-loi-the-vamot-so-de-xuat-trong-thoi-gian-toi-28380.html.
2. Đỗ Như: “Vì sao Đông Nam Bộ được xếp vào vùng có tỷ lệ dân số vàng”, https://vneconomy.vn/vi-sao-dong-nam-bo-duocxep-vao-vung-co-ty-le-dan-so-vang.htm.
3. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2021.
4, 12. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông Khoa học và Công nghệ: “Tập trung nguồn lực phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vùng Đông Nam Bộ”, https://www.most.gov.vn/ vn/tin-tuc/23894/tap-trung-nguon-luc-phat-trien-khoa-hoc--congnghe-va-doi-moi-sang-tao-vung-dong-nam-bo.aspx.
5. Theo số liệu của Cục Thống kê Bình Phước, năm 2023;
6. Hoàng Mẫn: “Nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ cao hơn mức trung bình của cả nước”, https://dangcongsan.vn/thoisu/nhieu-chi-tieu-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-nam-bo-cao-hon-muctrung-binh-cua-ca-nuoc-664418.html.
7. Văn Gia: “Giải bài toán nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng Đông Nam Bộ”, https://baodongnai.com.vn/dong-nam-bo/202309/ giai-bai-toan-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-cho-vung-dongnam-bo-4311d38/.
8. Cao Tân: “Thiếu hụt nhân lực trình độ đại học trong lĩnh vực nông nghiệp”, https://nhandan.vn/thieu-hut-nhan-luc-trinh-do-daihoc-trong-linh-vuc-nong-nghiep-post765734.html.
9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: “Bình Dương: Đẩy mạnh dạy nghề tiến tới đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất”, https://www.molisa.gov.vn/ baiviet/16950?tintucID=16950.
10, 11. Nhật Bình: “Phát triển nhân lực chất lượng cao vùng Đông Nam Bộ”, https://chinhsachcuocsong.vnanet.vn/phat-triennhan-luc-chat-luong-cao-vung-dong-nam-bo/18538.html.
13. Đinh Công Khải và cộng sự: “Nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ”, Tài liệu hội thảo, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
ThS. LÝ THU THỦY
Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh