Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế tuần hoàn ở nước ta hiện nay

Trần Ngọc Anh

CT&PT - Phát triển bền vững nói chung và phát triển kinh tế tuần hoàn nói riêng đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Đại hội XIII của Đảng cũng đặt nhiệm vụ trong thời gian tới là phải “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 cũng nhấn mạnh: “Khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu tư của quá trình sản xuất”. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia và phản ánh của các doanh nghiệp, quá trình phát triển kinh tế tuần hoàn nói chung và mô hình kinh tế tuần hoàn nói riêng đang gặp phải không ít khó khăn, rào cản.

Một là, Việt Nam hiện chưa có mô hình kinh tế tuần hoàn đúng nghĩa. Tuy nhiên, những mô hình tương tự như kinh tế tuần hoàn đã có từ khá sớm. Trong nông nghiệp có mô hình vườn - ao - chuồng, vườn - rừng - ao - chuồng, thu hồi khí biogas và chất thải trong trang trại chăn nuôi. Trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã có các làng nghề sử dụng phế liệu, phụ phẩm, chất thải sản xuất công nghiệp, bên cạnh đó là ứng dụng, cải tiến các công đoạn sản xuất theo hướng tiết kiệm tài nguyên, năng lượng và thu hồi chất thải, hoặc hình thành các khu công nghiệp sinh thái. Tuy nhiên, các mô hình dạng này mới dừng lại ở việc tái sử dụng, tái chế chất thải mang lại lợi ích về tài chính cho cơ sở sản xuất, tiêu dùng bằng cách tận dụng lại chất thải, nhưng chưa triệt tiêu được chất thải, thậm chí còn gây suy thoái môi trường. Trong khi ở cấp độ cao nhất của kinh tế tuần hoàn, toàn bộ các công đoạn của quá trình sản xuất đều được thiết kế bảo đảm không có chất thải đưa ra môi trường. Chất thải đều được giảm thiểu tối đa, tái sử dụng và tái chế.

Hai là, rào cản về pháp lý và nhận thức. Thể chế và pháp lý được coi là một trong những rào cản chính trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế tuần hoàn của các doanh nghiệp. Ví dụ, hiện nay, tro xỉ có thể được sử dụng để sản xuất gạch không nung, trong khi các nhà máy nhiệt điện chưa có phương án tối ưu để xử lý tro xỉ, thì các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tro xỉ này. Nghị định số 38/2015/NĐ-CP, ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu quy định các doanh nghiệp vật liệu xây dựng phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với hoạt động sử dụng tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện, thị trường tro xỉ buộc phải tạm ngưng để chờ Thông tư hướng dẫn Nghị định số 38/2015/NĐ-CP.

Về nhận thức, khái niệm nền “kinh tế tuần hoàn” ở Việt Nam hiện nay vẫn còn khá mới mẻ, do đó cần tiếp tục có những nghiên cứu và phổ biến kiến thức rộng rãi trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt hiệu quả cao, dẫn đến sẽ khó triển khai, thực hiện.

Hiện nay, trên thế giới, các sản phẩm sinh thái có giá rất cao. Thực tế, nhiều người tiêu dùng vẫn chấp nhận chi trả với giá cao và ưu tiên lựa chọn sản phẩm sinh thái vì họ cảm thấy tự hào về trách nhiệm với môi trường và xã hội. Tuy nhiên, tại Việt Nam, Luật Tài nguyên và Môi trường vẫn đang gọi các sản phẩm trên là “sản phẩm tái chế”. Thậm chí, doanh nghiệp không dám dán nhãn, công khai hay lờ đi việc mô tả sản phẩm có nguồn gốc sử dụng vật liệu tái chế. Tư duy này ảnh hưởng lớn tới tâm lý xã hội cũng như nhà sản xuất sản phẩm từ vật liệu tái chế. Thái độ miệt thị, kém ưu tiên của người tiêu dùng đã làm kìm hãm sự phát triển của thị trường kinh tế tuần hoàn.

Ba là, mặc dù tỷ lệ địa phương trong cả nước xây dựng chương trình hành động tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn là khá cao nhưng việc thực hiện ở nhiều tỉnh còn chậm, do hạn chế về nhận thức và năng lực triển khai. Thêm vào đó, quá trình tái cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh cũng đòi hỏi các địa phương phải điều chỉnh các nguồn lực về đất đai, vốn, quy hoạch tích hợp, áp lực chi tiêu cho thích ứng. Mặc dù cùng chung một chiến lược quốc gia nhưng mỗi tỉnh, thành phố lại xây dựng kế hoạch và có phương thức thực hiện riêng; thiếu sự liên kết, hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các địa phương trong vùng. Mặt khác, việc xây dựng các tiêu chí đánh giá về kinh tế tuần hoàn hiện nay chưa sát với thực tế, chưa đồng bộ với các chỉ tiêu thống kê khiến việc thẩm định kết quả không rõ ràng, khó định lượng những chuyển biến từ việc thay đổi tăng trưởng theo hướng xanh hóa. Bên cạnh cơ chế, thủ tục thực hiện thì nguồn vốn chính là vấn đề lớn nhất trong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.

Bốn là, đặc điểm của các tổ chức, chẳng hạn như loại hình kinh doanh, quy mô, lĩnh vực hoạt động có thể ảnh hưởng đến các động lực, kiến ​​thức và khả năng ứng dụng của kinh tế tuần hoàn. Ví dụ, các tổ chức lớn thường liên kết với chiến lược kinh doanh và đo lường hiệu suất, còn các tổ chức nhỏ thì có tính linh hoạt và ít hình thức hơn3. Việc ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được nhắc đến tại các doanh nghiệp lớn như Heineken, Lộc Phát, Unilever4, SCG5… Phần lớn các doanh nghiệp đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên việc áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn vẫn còn nhiều hạn chế.

Năm là, chất lượng lao động ở nước ta còn thấp. Nguồn lao động kỹ thuật có trình độ cao đang thiếu trầm trọng, gây trở ngại nhất định đối với sự phát triển kinh tế tuần hoàn của vùng.

Sáu là, việc thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn đặt ra nhiều yêu cầu giảm tiêu thụ nguyên liệu thô, thiết kế các sản phẩm thân thiện với môi trường để có thể dễ dàng thu hồi và tái sử dụng (thiết kế sinh thái), bảo trì đúng thời gian sản phẩm. Do đó, việc áp dụng kinh tế tuần hoàn đòi hỏi phải thay đổi và đầu tư đáng kể để sửa đổi các mô hình tuyến tính hiện có trong các lĩnh vực như lập kế hoạch, sản xuất và quản lý chuỗi cung ứng. Hay nói cách khác đó là thay đổi từ mô hình kinh doanh phụ thuộc vào vốn và tài nguyên sang mô hình kinh doanh dựa trên các dịch vụ và tăng cường mối quan hệ hợp tác.

Bảy là, huy động nguồn vốn thực hiện mục tiêu “xây dựng nền kinh tuần hoàn” là một trong những thách thức không nhỏ đối với các địa phương. Sự phát triển diễn ra không đồng đều giữa các địa phương, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai “nền kinh tế tuần hoàn”.

Tám là, nền kinh tế tuần hoàn gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, cácbon thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường. Trên thực tế hiện nay, so với thế giới, công nghệ sản xuất ở Việt Nam phần lớn là công nghệ cũ, lạc hậu, tiêu hao năng lượng lớn, vì vậy, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế tuần hoàn là thách thức không nhỏ nếu không có trợ giúp của các nước có công nghệ cao trên thế giới.

Một số đề xuất, khuyến nghị

Để triển khai kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn có hiệu quả ở nước ta, trước tiên cần nâng cao năng lực triển khai các hoạt động, dự án tăng trưởng xanh của đội ngũ cán bộ từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã; tập huấn và hướng dẫn các địa phương cách theo dõi, giám sát và thống kê kết quả thực hiện tăng trưởng xanh. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền thông tin, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về kinh tế tuần hoàn trong sản xuất và tiêu dùng, xây dựng lối sống xanh cho người dân.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh hợp tác, liên kết vùng giữa các tỉnh lân cận để có biện pháp hỗ trợ giải quyết các vấn đề chung, tạo nên hiệu ứng lan tỏa tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn cho cả khu vực. Cụ thể, có thể xây dựng cơ chế hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các tỉnh trong khu vực về kinh nghiệm chuyển đổi mô hình kinh tế tuần hoàn.

Hiện nay, do đặc thù của mỗi địa phương khác nhau nên việc thực hiện chiến lược kinh tế tuần hoàn còn rời rạc, chưa mang tính liên kết vùng. Để kinh tế tuần hoàn trở thành động lực chung và mang tính lan tỏa, cần có cơ chế xây dựng các chương trình hành động mang tính khu vực để thấy rõ sự tác động qua lại giữa các địa phương.

Các địa phương cần phối hợp với các tổ chức để xây dựng chỉ tiêu đánh giá cụ thể, bám sát thực tiễn cũng như tổ chức tập huấn các thông số tăng trưởng xanh cho từng địa phương để quá trình đánh giá diễn ra một cách hiệu quả, chính xác.

Đặc biệt, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng, thay đổi nhận thức của xã hội từ nền “kinh tế nâu” (nền kinh tế chỉ chú trọng nhiều tới tăng trưởng kinh tế mà chưa quan tâm đúng mức tới vấn đề bảo vệ môi trường) sang nền “kinh tế xanh” để tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội, từ đó thay đổi quan niệm và nhận thức về một “nền kinh tế xanh”. Trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, cần đổi mới giáo trình, bài giảng theo hướng tiếp cận “nền kinh tế xanh”.

Về bài toán nguồn vốn đầu tư, chiến lược phát triển kinh tế tuần hoàn không thể thành công nếu thiếu sự tham gia của khu vực tư nhân. Vì vậy, cần có cơ chế, chính sách hợp lý nhằm huy động các nguồn lực tư nhân đầu tư vào các dự án kinh tế tuần hoàn.

Kinh tế tuần hoàn phải gắn liền với tài chính xanh và tín dụng xanh. Nói cách khác, phải có cơ chế ưu tiên cho các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án xanh và tổ chức tín dụng cấp vốn phục vụ các dự án tăng trưởng xanh. Cụ thể, tập trung ưu đãi để thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án thuộc lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng; phát triển rừng bền vững, quản lý, xử lý chất thải bền vững, chuyển đổi nông nghiệp xanh…

Cần sử dụng cơ chế tài chính sáng tạo cho các dự án kinh tế tuần hoàn. Cụ thể, phân bổ nguồn vốn ngân sách theo nguyên tắc đòn bẩy, nghĩa là để nhận được một khoản đầu tư từ ngân sách, chủ đầu tư các dự án cần có vốn đối ứng hoặc huy động từ khu vực tư nhân một khoản vốn tương ứng.

Tuy nhiên, đặc thù của kinh tế tuần hoàn là đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng lợi nhuận chỉ ở mức trung bình trong thời gian dài, thậm chí có nguy cơ rủi ro cao về công nghệ, tín dụng. Do đó, để khuyến khích khối tư nhân đầu tư vào kinh tế tuần hoàn cần có cơ chế bảo lãnh của Nhà nước để giảm thiểu rủi ro, nâng cao mức lợi nhuận cho nhà đầu tư.

Xét về tổng thể, kinh tế tuần hoàn không phải là một dự án ngắn hạn mà đó là một chiến lược lâu dài, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của khu vực và cả nước. Vì vậy, cần có sự đầu tư toàn diện trên mọi khía cạnh như xây dựng cơ chế, chính sách cũng như huy động các nguồn lực xã hội tham gia để mang lại hiệu quả cao nhất.


1. L. M.: LFG Energy Project Development Handbook, Washington, DC, USA, United States Environmental Protection Agency, 2015.

2. RDF là nhiên liệu từ phế phẩm.

3. D.A. Vermunt: Exploring barriers to implementing different circular business models, Journal of Cleaner Production, 2019.

4. Unilever triển khai mô hình phân loại tại nguồn, thu gom, tái chế rác thải bao bì nhựa hướng tới mục tiêu 100% lượng rác thải bao bì nhựa từ các sản phẩm của Unilever sẽ được thu gom, tái chế, tái sử dụng cho đến năm 2025.

5. Tập đoàn SCG thay thế nguồn nguyên liệu chính là bột giấy tự nhiên bằng giấy phế liệu; bùn thải từ sản xuất giấy được sử dụng làm phân bón cho cây bạch đàn - một nguyên liệu thô để sản xuất giấy.

PGS, TS. Nguyễn Tấn Vinh

Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin