Sự cần thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay

Trần Ngọc Anh

CT&PT - Mục đích của bài viết này nhằm làm rõ sự cần thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu chưa có dấu hiệu phục hồi vững chắc và sự cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giữa các quốc gia cũng như giữa các địa phương trong phạm vi một nước.

Sau hơn 35 năm đổi mới, mô hình tăng trưởng kinh tế nước ta góp phần vào các thành tựu to lớn, quan trọng, song cũng bộc lộ những khiếm khuyết cần sớm khắc phục. Hơn nữa, những tác động của thế giới tới yêu cầu thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam như khủng hoảng kinh tế thế giới đã gây thiệt hại và tác động của nó rất tàn khốc, cả thế giới phải chống chọi với nhiều liệu pháp đau đớn mang tính điều chỉnh vĩ mô và hệ thống để cứu chữa nền kinh tế.
Hậu quả của khủng hoảng năm 2008 còn chưa hiện diện đầy đủ, thế giới lại bị đe doạ bởi khủng hoảng nợ công khu vực Châu Âu mà mở màn là Hy Lạp, sau đó ở Ireland, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia… đã đẩy cả thế giới đang trong khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu lại phải ứng phó với những vấn đề hiện tại, và còn đó những đe dọa về sự chao đảo bất chợt của nền kinh tế thế giới bởi toàn cầu hóa…
Để thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái, hiện nay trên thế giới đang xuất hiện những mô hình phát triển mới thay thế cho các mô hình phát triển cũ, cùng với đó là sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế trên phạm vi từng quốc gia và toàn thế giới với các điểm cần chú ý là:
+ Đối với cơ cấu sản phẩm: đang và sẽ có sự cải thiện căn bản về danh mục, chủng loại, chất lượng, hình dáng, công dụng và giá cả của hàng loạt sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ theo hướng đa dạng hơn, nhỏ gọn hơn, nhiều chức năng hơn, tiện lợi, tinh xảo hơn, tiết kiệm năng lượng và rẻ hơn, do đó phổ cập rộng rãi hơn. Đặc biệt thế giới sẽ ngày càng ưa chuộng và mở rộng sản xuất, cũng như tiêu dùng các sản phẩm xanh, sạch, bảo vệ sức khỏe con người bằng những công nghệ có hàm lượng khoa học ngày càng cao và thân thiện với môi trường…
+ Đối với cơ cấu các doanh nghiệp: sẽ có hai xu hướng song song diễn ra: Một mặt, các công ty trung bình và nhỏ sẽ thống trị và có tương lai hơn. Các doanh nghiệp sẽ được tổ chức theo quy mô nhỏ (thậm chí có công ty rất nhỏ, chỉ có một người), phi tập trung hóa, giảm bớt tệ nạn quan liêu, được chuyên môn hóa cao, có tinh thần hợp tác, hoạt động mang tính toàn cầu, chặt chẽ và tuân thủ những tiêu chuẩn đạo đức ngày càng cao hơn. Mặt khác, sự hợp nhất để trở nên lớn mạnh hơn và có sức cạnh tranh cao hơn, đáp ứng được những nhu cầu to lớn của nền kinh tế tương lai sẽ trở thành xu hướng vận động của các tổ hợp kinh doanh dịch vụ tài chính ngân hàng và thông tin với ngày càng có nhiều tập đoàn xuyên quốc gia có giá trị tài sản lớn hơn GDP của một nước, thậm chí của nhiều nước. Các công ty xuyên quốc gia đang kiểm soát 2/3 chu chuyển ngoại thương và đầu tư quốc tế và sẽ không mất đi vai trò to lớn của chúng trong việc tạo động lực cho tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế toàn cầu. Trong tương lai, các công ty này sẽ được điều chỉnh theo định hướng: Toàn cầu hóa chiến lược kinh doanh; đa nguyên hóa các chủ thể đầu tư; đa dạng hóa thị trường và lĩnh vực đầu tư; địa phương hóa xí nghiệp của các công ty ở nước ngoài, cả về hướng kinh doanh, cơ cấu sản phẩm, công nghệ, nguyên liệu, nhân lực và vốn đầu tư...
+ Đối với cơ cấu các nền kinh tế: các cấu trúc ngành, nghề sẽ chuyển dịch theo hướng: Thu hẹp và mất đi các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống và xuất hiện những ngành khai thác, chế biến nguyên liệu mới thích hợp; các ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất và đem lại nhiều lợi nhuận nhất trong nền kinh tế quốc gia và quốc tế; các công nghệ mới, các xa lộ thông tin, vận tải toàn cầu phát triển, đang thu hẹp lại khoảng cách của các quốc gia, đồng thời mở rộng giới hạn không gian kinh tế và sinh tồn của con người và đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển các yếu tố của hoạt động tái sản xuất kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Do vậy, các nền kinh tế sẽ bị phụ thuộc vào những diễn biến kinh tế ở bên ngoài khá cao. Bất cứ sự bất ổn nào của thị trường tài chính, lao động, thương mại thế giới đều mang tính lan truyền, ảnh hưởng đến tất cả các nền kinh tế.
Việt Nam tuy chỉ là một nước nhỏ, chiếm một tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế thế giới nhưng không nằm ngoài ảnh hưởng của xu hướng này nên việc thay đổi mô hình tăng trưởng là một yêu cầu thay đổi nội tại nền kinh tế- xã hội, đồng thời cũng là yêu cầu của quá trình hội nhập, toàn cầu hóa để có thể phát triển bền vững mang tính dài hạn. Nó phù hợp với xu thế chung của thế giới, khi nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới đã và đang tích cực xúc tiến sự thay đổi để thích nghi với bối cảnh kinh tế thế giới mới sau khủng hoảng. Nhận thức được điều đó, Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”. Đồng thời, Hội nghị Trung ương 3 khóa XI của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của 5 năm từ 2011 – 2015 là: “Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh” . Hội nghị Trung ương 3 khóa XI đã đưa ba lĩnh vực trọng tâm trong 5 năm tới, đó là: (1) Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công, nhằm mục tiêu huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nhất, theo thứ tự ưu tiên hợp lý nhất các nguồn lực của Nhà nước và xã hội, nội lực và ngoại lực cho đầu tư phát triển theo quy hoạch; (2) Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, nhằm mục tiêu đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản,…; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu; giảm dần tỷ lệ cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại; cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính theo hướng giảm số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động và dịch vụ cũng như sức cạnh tranh; (3) Tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước, với mục tiêu chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải, tập trung phát triển những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu Nhà nước đối với vốn và tài sản của Nhà nước tại các doanh nghiệp này. Để thực hiện những điều đó, Đại hội XI của Đảng xác định một số nhiệm vụ cơ bản sau đây: Một là, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Hai là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng các hình thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sự dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước; khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao và các giải pháp đổi mới công nghệ, chế tạo sản phẩm mới và tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả vào những khâu, công đoạn có hàm lượng khoa học, giá trị gia tăng cao. Ba là, phát triển đa dạng các ngành, nghề tạo nhiều việc làm, thu nhập; khuyến khích, tạo điều kiện để người lao động có điều kiện học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề. Phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tăng cường liên kết, khai thác, phát huy thế mạnh của từng vùng; tạo điều kiện cho phát triển và phát huy vai trò đầu tàu của các vùng kinh tế trọng điểm, tạo sức lan tỏa cho các vùng khác.
Nói tóm lại, mục tiêu của việc thay đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam là khôi phục ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; duy trì tăng trưởng cao một cách bền vững để thoát khỏ bẫy thu nhập trung bình.
Nội dung cụ thể của việc thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế nhằm tiến tới một mô hình mới ở đó nền kinh tế đạt được các nội dung như sau:
Một là, mô hình tăng trưởng có sự kết hợp hài hoà giữa chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo: Tư duy này cần được thể hiện rõ trong chính sách tăng cường đầu tư vào các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu, cụ thể là đầu tư nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nâng cao trình độ khoa học và công nghệ quốc gia, đầu tư nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ. Vai trò của khoa học và công nghệ trong tăng trưởng phải được coi là chìa khoá để có thể sớm thay đổi mô hình tăng trưởng với tiêu hao đầu vào (vốn, đất đai, năng lượng,...) ở mức thấp hơn nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng, tiến tới tăng trưởng cao hơn.
Hai là, mô hình tăng trưởng mới hướng tới việc nâng cao chất lượng, chú trọng đến năng suất, hiệu quả của tăng trưởng, kể cả hiệu quả của sự tham gia trong chuỗi giá trị toàn cầu: Cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào gia công hiệu quả thấp, bị động và bị phụ thuộc cao vào các nền kinh tế khác sang mô hình tăng trưởng dựa trên chủ động khai thác lợi thế cạnh tranh, chú trọng nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất và trong xuất khẩu, chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hoá có dung lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của đất nước và thực hiện đồng bộ quá trình khai thác và chế biến sản phẩm. Phải đầu tư nâng cao năng lực cho các ngành công nghiệp hỗ trợ để chủ động sản xuất các hàng hoá trung gian, cung cấp đầu vào cho quá trình chế biến, nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, tham gia với vị trí ngày càng có lợi và chủ động trong chuỗi giá trị toàn cầu nói riêng và quá trình phân công quốc tế nói chung. Sự chú trọng nhiều hơn đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả tăng trưởng, phải được thể hiện cả trên góc độ ngành, sản phẩm và không gian. Đối với các ngành, quá trình thực hiện tăng trưởng luôn gắn liền với việc theo dõi sự biến động của các chỉ tiêu hiệu quả, cụ thể là hiệu quả sử dụng vốn (qua hệ số ICOR thích ứng với trình độ công nghệ), hiệu quả sử dụng lao động (qua chỉ tiêu tăng năng suất lao động), hiệu quả sử dụng năng lượng (mức hao phí năng lượng điện trên 1 đơn vị GDP); hiệu quả sử dụng tài sản, vốn sản xuất (tỷ lệ huy động công suất máy và năng lực sản xuất, mức lợi nhuận trên đơn vị vốn sản xuất). Trong phạm vi vùng, quá trình theo đuổi mục tiêu và đánh giá tăng trưởng cần quan tâm đến mật độ tập trung kinh tế và hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực, vùng có khả năng tạo nhiều giá trị gia tăng, giảm các chi phí trung gian. Giảm dần, đi đến xóa bỏ chính sách tăng trưởng nhờ khai thác và xuất khẩu sản phẩm thô (sản phẩm khai thác tài nguyên khoáng sản và sản phẩm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp), hướng tới các mô sản xuất, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp thế hệ thứ 2 (sản xuất sản phẩm có vốn và lao động ngang nhau như cơ khí chế tạo, sản phẩm tiêu dùng chất lượng cao, chế biến thực phẩm,…) và thế hệ thứ 3 (các sản phẩm cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất và chế biến). Đi đôi với quá trình tăng trưởng là quá trình tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng để tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển kinh tế tư nhân – thành phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất, có khả năng đạt hiệu quả cao nhất và tạo nhiều việc làm nhất. Mặt khác, phải đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước, để doanh nghiệp Nhà nước trở thành công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách cơ cấu và định hướng tổ chức thị trường; thực hiện đa sở hữu, công khai minh bạch, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và quan trọng hơn là đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường.

NCS. TRẦN QUYẾT THẮNG
Đại học Kinh tế Luật Tp. Hồ Chí Minh

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin