1. Bối cảnh quốc tế, khu vực
Một là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển nhanh như vũ bão đang và sẽ tác động đến tất cả các quốc gia
Chính sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thực tế đã minh chứng rằng quốc gia nào tận dụng tốt mặt tích cực sẽ có sự thay đổi đột phá, đáng kinh ngạc về tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu hơn, nền văn minh của nhân loại nói chung, quốc gia nói riêng chuyển sang nền văn minh mới - văn minh trí tuệ. Theo đó, kinh tế tri thức được hình thành, coi trọng và phát triển mạnh (ví dụ như sự thay đổi của các thế hệ điện thoại di động, công nghệ thông tin, máy tính, sản phẩm công nghệ cao…); đồng thời, các ngành công nghiệp truyền thống như cơ khí, luyện kim đen, đóng tàu,… dần dần bị xế bóng, mất vai trò. Điều này đặt ra vấn đề nếu quốc gia nào không thay đổi tư duy để nhận thức về hợp tác quốc tế, không nắm bắt và tận dụng tốt thành tựu của cuộc cách mạng này nhằm đưa đất nước bứt lên thì rất khó khăn trong phát triển và khó vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
Hai là, tình hình chính trị, an ninh và cục diện thế giới.
- Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ, tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
- Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kìm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa phương đang đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là những nước nhỏ và vừa đang đứng trước những cơ hội và khó khăn, thách thức lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn ra phức tạp.
Ba là, những vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là biến đổi khí hậu
Những vấn đề mang tính toàn cầu có thể khái quát thành 04 nhóm vấn đề chủ yếu: Một là, nhóm vấn đề liên quan đến nguồn lực phát triển (nhân lực, vật lực, tài lực, vị trí, vị thế quốc gia trong khu vực và quốc tế); Hai là, nhóm vấn đề liên quan đến môi trường sinh thái, trong đó có biến đổi khí hậu toàn cầu; Ba là, nhóm vấn đề liên quan đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của toàn cầu, quốc gia, doanh nghiệp, như nợ nước ngoài, lạm phát, thất nghiệp,… Bốn là, nhóm vấn đề toàn cầu liên quan đến chính trị, xã hội… như chiến tranh và hòa bình; vấn đề bành trướng tôn giáo, xung đột chủng tộc, sắc tộc; dịch bệnh đối với người và vật nuôi…
Chính sự biến đổi khí hậu toàn cầu và ở mỗi quốc gia nói riêng trong những năm gần đây đã gây tổn thất quá lớn đối với mỗi quốc gia. Điều này đang buộc các quốc gia phải có tư duy mới trong cuộc chơi về hội nhập để cùng chung sức phòng ngừa, giảm thiểu và giải quyết các vấn đề toàn cầu, trong đó có biến đổi khí hậu gây ra.
Bốn là, kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu…
Biến động của giá cả trên thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các Hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới.
Năm là, tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là Trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực và trên biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt phức tạp. Đặc biệt là sự hình thành cộng đồng ASEAN vào 31/12/2015, sẽ tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.
2. Bối cảnh trong nước
Thứ nhất, thực tiễn công cuộc đổi mới của Việt Nam trong gần 40 năm qua (1986-2026)
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới của Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam và các đại hội Đảng tiếp theo sau, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thành công, như nhất quán thực hiện mở rộng hợp tác quốc tế theo phương châm đa dạng hóa và đa phương hóa các đối tác và các hình thức kinh tế đối ngoại. Theo đó, Việt Nam đã mở rộng quan hệ ngoại giao, buôn bán, đầu tư... với hầu hết các quốc gia, vùng, lãnh thổ trên thế giới; Thể chế kinh tế thị trường đang hình thành và từng bước dần hoàn thiện; Kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội từng bước được cải thiện; Đời sống của dân cư ngày càng được nâng cao… Đặc biệt là Việt Nam đã sớm cán đích so với mục tiêu đặt ra (trước hai năm) để được xếp vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp (1000-3000 USD/người). Những thành tích này thể hiện sự cố gắng của Việt Nam năm sau cải thiện hơn năm trước. Tuy nhiên, nếu so sánh với một số nước trong khu vực thì có nhiều vấn đề đặt ra phải suy nghĩ và phải có những thay đổi mạnh mẽ.
Nhìn tổng thể, qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm:
- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, xã hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết hiệu quả.
- Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế chậm, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng…
- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao: kỷ cương, kỷ luật không nghiêm; nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế; vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho…
- Hội nhập quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phát triển.
Thứ hai, trong thời gian tới, nước ta tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đổi mới mô hình tăng trưởng lấy nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng các nguồn lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế làm mục tiêu hàng đầu, phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
- Phải đổi mới và tái cơ cấu lại nền kinh tế;
- Cách thức tăng trưởng cân đối hơn giữa chiều rộng và chiều sâu;
- Thực hiện chính sách thúc đẩy tất cả các vùng trong cả nước cùng phát triển;
- Các thành phần kinh tế đều phát triển bình đẳng và không phân biệt đối xử;
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập và định hướng xuất khẩu, kết nối được nền kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và toàn cầu;
- Kết hợp hài hòa vai trò của nhà nước và thị trường trong phân bố nguồn lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức; lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý; phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong thời gian tới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh và bền vững; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Thứ ba, Việt Nam tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng
(1) Bản tuyên bố thành lập Cộng đồng ASEAN đã được ký kết vào ngày 22/11/2015 bởi 10 lãnh đạo của các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Kuala Lumpur. Việt Nam chính thức tham gia vào Cộng đồng ASEAN (ASEAN Community Roadimap) trong đó, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là trọng tâm. Đồng thời, bắt đầu từ 01/01/2015, Việt Nam hoàn toàn mở cửa thị trường bán lẻ theo cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Cộng đồng ASEAN thành lập sẽ tạo ra thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó, có sự lưu chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề. Từ đó nâng cao tính cạnh tranh và tạo sự hấp dẫn đối với đầu tư kinh doanh từ bên ngoài. cộng đồng ASEAN mà trụ cột là cộng đồng kinh tế (AEC) hình thành chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến thị trường lao động của Việt Nam. Có thể thấy những tác động tích cực, như tạo cơ hội cho người lao động có tay nghề được phép di chuyển tự do trong khu vực ASEAN. Cơ hội nâng cao tiền lương và thu nhập cho người lao động, đặc biệt là người lao động có tay nghề cao; cơ hội nâng cao chất lượng nguồn cung lao động nhờ sự hợp tác về lao động giữa các nước ASEAN. Bên cạnh đó, là những thách thức không nhỏ đến việc làm, thu nhập… của lao động Việt Nam. Đó là: chất lượng cung lao động thấp dẫn đến nguy cơ lao động Việt Nam có thể bị thua ngay trên sân nhà; có thể làm tăng thất nghiệp và việc làm dễ tổn thương; thách thức phải đổi mới chương trình đào tạo, nhất là đào tạo nghề cho lao động Việt Nam theo tiêu chuẩn khu vực và thế giới.
(2) Năm 2018, Việt Nam sẽ phải thực hiện nền kinh tế thị trường đầy đủ (không phải là phi thị trường như hiện nay). Theo đó, Việt Nam phải cải cách mạnh theo hướng đồng tiền nội địa phải tiến tới tự do chuyển đổi; Tiền lương, tiền công do chủ, thợ thỏa thuận quyết định, giá cả hàng hóa, dịch vụ do thị trường điều tiết; Quyền kinh doanh của doanh nghiệp trong và ngoài nước tiến tới như nhau; Nguồn lực do thị trường phân bổ; Thương mại và đầu tư tiến tới tự do hóa hoàn toàn. Đây là những vấn đề không dễ đáp ứng và thực hiện đối với Việt Nam.
Bốn, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng
Biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và khu vực. Trái đất nóng lên, nước biển dâng lên, sự thay đổi về tần suất, quy mô và mức độ của thiên tai (hạn, lũ, lụt, thời tiết nóng và lạnh, dịch bệnh…) là những biểu hiện cơ bản nhất của biến đổi khí hậu và là những thách thức quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp nước ta. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu tài nguyên nước thế giới (IWWI) năm 2010 đã chỉ ra rằng: đến năm 2030, nhiệt độ bình quân năm ở các nước trong tiểu vùng Mê Kông, tăng từ 0,02 đến 0,03 độ cả ở hai mùa lạnh và nóng, mùa khô sẽ dài hơn, mùa mưa sẽ ngắn hơn trong khi lượng mưa ít đổi, mực nước biển dâng lên tới 33cm vào năm 2050, cường độ hoạt động của bão sẽ tăng lên. Các nghiên cứu ở Việt Nam cũng chỉ ra rằng: nếu nước biển dâng lên 1m thì 10 tỉnh của Việt Nam bao gồm Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Tp. Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Tiền Giang và Cần Thơ sẽ bị ngập từ 24,7% đến 50,1% diện tích với tổng số 11.475 km2. Điều này sẽ làm giảm GDP của Việt Nam ít nhất 10%; sản lượng lương thực của Việt Nam sẽ giảm 12% (5 triệu tấn lúa). Mặt khác, số lượng các cơn bão, sự tàn phá của từng trận bão, thời tiết lạnh và nóng đã xuất hiện một cách bất thường ở Việt Nam. Dự báo, các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung sẽ bị hạn nhiều hơn, một số đợt không khí lạnh, rét đậm, rét hại sẽ xuất hiện nhiều hơn ở tỉnh phía Bắc và Trung Bộ. Biến đổi khí hậu đã tạo ra sự khan hiếm về tài nguyên nước, thay đổi thời tiết, trực tiếp ảnh hưởng đến sự tăng trưởng nông nghiệp. Thách thức này đòi hỏi phát triển nông nghiệp phải tính đến sự biến đổi khí hậu và có chiến lược và giải pháp tạo ra khả năng ứng phó linh hoạt và hiệu quả đối với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đảm bảo an ninh lương thực và thực phẩm đáp ứng nhu cầu.
ThS. NGUYỄN HỮU VINH
Trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội