Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam: từ đâu và như thế nào?

Trần Ngọc Anh

CT&PT - Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế là một chủ trương lớn, được thể hiện xuyên suốt nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng. Đến Đại hội XII, “định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế” đã có những bước phát triển mới, trên cơ sở kế thừa, phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập. Có thể khẳng định, đó là một trong những “điểm nhấn” về phát triển kinh tế để đẩy mạnh thực hiện “3 đột phá chiến lược” theo tinh thần Đại hội XII.

Đổi mới bắt đầu từ đâu?

Theo tinh thần của văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng vừa qua, để đổi mới mô hình tăng trưởng, cần nhìn nhận một cách khách quan về mô hình tăng trưởng đã có trên các phương diện: (1) Phát hiện những khuyết tật của mô hình cũ để có giải pháp loại bỏ; (2) Phát triển những thế mạnh, những ưu việt của mô hình đã có để hoàn thiện nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của mô hình mới. Việc phát triển này gắn với yêu cầu đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế để hình thành mô hình tăng trưởng mới.

030820h45-1698923455.jpg
 

Những yêu cầu nên trên có thể coi như những điều kiện bắt buộc để thực hiện nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Bởi lẽ, nếu không xác định được yêu cầu rà soát mô hình tăng trưởng cũ để có sự điều chỉnh, vừa loại bỏ cái lỗi thời, vừa bổ sung phát triển cái mới, thì không thể xác định được chính xác nội dung của mô hình mới.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng tổng kết: Trong giai đoạn 2011 – 2015, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu; đã triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng chiều sâu, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; thực hiện các bước đột phá về tái cơ cấu: đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, hệ thống các tổ chức tài chính, tín dụng, doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty, nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, công nghiệp, dịch vụ và điều chỉnh quy hoạch phát triển vùng

Tuy nhiên, nhìn nhận một các khách quan có thể thấy rằng tốc độ phát triển kinh tế chưa thật tương xứng với tiềm năng và cơ hội mà đất nước đã có được. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa đồng bộ; Tăng trưởng kinh tế trong những năm qua vẫn chủ yếu theo bề rộng, chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu, chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả của tăng trưởng hạn chế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm hàng hóa còn thấp kém... Cụ thể:

Mô hình tăng trưởng chưa chuyển đổi kịp theo yêu cầu phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đầu vào sản xuất của một số ngành còn lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Sản xuất kinh doanh chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất khẩu thô, xuất khẩu dưới hình thức gia công còn lớn; hàm lượng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng còn thấp.

Đổi mới công nghệ và phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao còn chậm; tỉ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp. Năng suất lao động còn thấp. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ đạt khoảng 18% GDP vào năm 2015, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Chưa phát triển được nhiều sản phẩm có giá trị công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.

Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm và kết quả đạt được chưa đồng đều, chưa đạt mục tiêu đề ra; nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu. Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, cơ giới hóa, công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu. Hợp tác, liên kết trong sản xuất nông nghiệp phát triển còn chậm, kinh tế tập thể hoạt động còn lúng túng. Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, thiếu bền vững, hiệu quả chưa cao; chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và thu nhập của người nông dân còn thấp. Tỉ trọng lao động trong nông nghiệp còn lớn.

Nhiều ngành dịch vụ phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Hệ thống phân phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông suốt, hiệu quả và chưa bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ. Phát triển du lịch còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chất lượng dịch vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao.

Một số vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế chưa phát huy được vai trò đầu tàu cho tăng trưởng kinh tế. Không gian phát triển nhiều mặt còn bị chia cắt theo địa giới hành chính. Thiếu thể chế tạo liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế.

Cơ cấu lại đầu tư công ở một số ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu; đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp, thất thoát, lãng phí ở một số dự án còn lớn; xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản chậm. Cơ chế, chính sách chưa đủ sức hấp dẫn để huy động nguồn lực tư nhân trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; chậm hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với hình thức hợp tác công - tư (PPP). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa quan tâm nhiều đến công nghệ, tỉ lệ nội địa hoá và bảo vệ môi trường.

Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng mới thực hiện được giai đoạn đầu. Chất lượng tín dụng và dịch vụ ngân hàng cải thiện còn chậm. Cơ cấu tín dụng chưa thật phù hợp với yêu cầu phát triển. Năng lực tài chính, quản trị, kiểm tra, giám sát nội bộ của một số tổ chức tín dụng còn yếu, nợ xấu còn cao. Sở hữu và hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, có mặt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá, thoái vốn ở một số doanh nghiệp chưa đạt tiến độ. Tỉ lệ vốn được cổ phần hóa còn thấp. Quản trị doanh nghiệp đổi mới còn chậm; kiểm tra, giám sát nội bộ còn hạn chế. Việc cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường chậm, chưa đạt mục tiêu đề ra. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước thấp, chưa tương xứng với tài sản và nguồn lực, thất thoát, lãng phí còn lớn. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước.

Mặt khác, văn kiện Đại hội Đảng khóa XII cũng xác định, bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay có tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung và yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế nói riêng: Khoa học, công nghệ phát triển rất nhanh cùng với toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia; Các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học, công nghệ. Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế; Sau 30 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều và có thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội…

Đổi mới như thế nào?

Về định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng:

doi-moi-mo-hinh-tang-truong-la-yeu-cau-thuc-su-cap-bach-1698923370.jpg
 

- Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững; giải quyết hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

- Về nguồn lực tăng trưởng: Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp.

- Động lực và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là: Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ mới tiên tiến; thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi người để chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Cụ thể:

Từ Đại hội XII, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế đã được nhận thức toàn diện, biện chứng hơn. Trong đó, “tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng” là nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2020.

Nếu xem xét trật tự logic, thì trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, “cơ cấu kinh tế” đứng trước “đổi mới mô hình tăng trưởng”. Tăng trưởng kinh tế là một nội dung cốt lõi của phát triển kinh tế, chỉ số quan trọng phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó cơ cấu kinh tế là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định nhất.

Do đó, muốn tăng trưởng kinh tế, trước hết phải trên cơ sở “cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế”, nhất là cơ cấu lại “các ngành, các lĩnh vực” kinh tế quan trọng. Vì vậy, nội dung “cơ cấu lại nền kinh tế” đứng trước nội dung “đổi mới mô hình tăng trưởng” không những khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cơ cấu kinh tế đối với phát triển kinh tế, mà còn phản ánh sự phát triển nhận thức cũng như lý luận của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế.

Mối quan hệ giữa cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng là mối quan hệ biện chứng, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau. Muốn đổi mới mô hình tăng trưởng, phải thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, muốn cơ cấu lại nền kinh tế đúng hướng và đạt hiệu quả, phải gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đảng ta nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng này khi xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trong đó có nhiệm vụ: “...Tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược..., cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng...”.

Mặt khác, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới”.

Bên cạnh đó, đổi mới mô hình tăng trưởng là yêu cầu bắt buộc, tất yếu của sự phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, những mâu thuẫn, bất cập, thể hiện tập trung nhất ở cơ cấu kinh tế không hợp lý, mô hình tăng trưởng không phù hợp, đã trở thành lực cản khiến cho sự phát triển của nền kinh tế trở nên kém hiệu quả, không bền vững.

Đại hội XII tổng kết và đánh giá: “Cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng chiều sâu, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh”.

Tuy nhiên, do nhận thức, nhất là nhận thức về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế chưa đầy đủ nên “mô hình tăng trưởng chưa chuyển đổi kịp theo yêu cầu phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp”. Theo đó, Đảng ta xác định: “Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước”.

Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định một số yêu cầu cơ bản trong thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế:

Yêu cầu đối với tư duy của các cấp chính quyền khi ban hành chính sách

Trước hết, cần tiến hành đổi mới mô hình tăng trường và cơ cấu lại nền kinh tế bắt đầu từ tư duy của các cấp chính quyền nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước khi ban hành và thực thi chính sách, trong đó quan trọng nhất là hệ thống ngân sách, chính sách tài khoá, đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước.

Yêu cầu đối với vấn đề cơ cấu lại đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công

Giảm nhanh quy mô đầu tư của nhà nước vào doanh nghiệp nhà nước, xoá bỏ triệt để các mệnh lệnh hành chính của cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu các chủ thể kinh tế trong nước phải cho vay, khoanh nợ, giãn nợ hay xoá nợ đối với doanh nghiệp nhà nước; đồng thời phải có biện pháp, chế tài cụ thể để buộc lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước phải tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Yêu cầu đối với vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước

Minh bạch đến mức tối đa có thể những hoạt động của doanh nghiệp nhà nước bằng cách công khai báo cáo kiểm toán của tất cả các tập đoàn và tổng công ty nhà nước, tăng cường sự giám sát của các nhà chuyên môn cũng như toàn xã hội.

Yêu cầu đối với vấn đề cơ cấu lại và thực thi chính sách, kỷ luật tài khoá

Thay đổi cơ cấu kinh tế, cần bắt đầu với chính sách tài khoá, để thay đổi chính sách tài khoá cần bắt đầu với kỷ luật tài khoá.

Để tăng cường kỷ luật tài khoá, cần ưu tiên thực hiện một số chính sách. Đó là, gộp các khoản chi trong và ngoài ngân sách trong một ngân sách hợp nhất để tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Xác định một lộ trình bất di bất dịch để đưa thâm hụt ngân sách về mức bền vững, dưới 3%. Giảm thâm hụt ngân sách không phải bằng tăng thu hay tận thu như hiện nay mà là giảm chi trên cơ sở tăng hiệu quả chi tiêu. Kiên định với chính sách tài khoá chu kỳ, tức là chính phủ chỉ tăng đầu tư khi tổng cầu có dấu hiệu suy giảm do khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình không đầu tư và chi tiêu như kỳ vọng.

Tóm lại, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam sẽ phải tiến hành trong nhiều năm với không ít khó khăn, thách thức. Trong quá trình đó, bên cạnh những đổi mới, sáng tạo ở trong nước, cần học hỏi những kinh nghiệm, bài học thành công và thất bại trong tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở các quốc gia trên thế giới.

HOÀNG TRUNG HẢI

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin