Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống

CT&PT - An ninh phi truyền thống là một phạm trù không mới, song do tính chất phức tạp cùng với những thách thức của nó trong đời sống kinh tế - xã hội, đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia, tổ chức và cộng đồng quốc tế, trong đó có Việt Nam. Thời gian qua, Việt Nam đã tham gia tích cực, chủ động hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức này và đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần bảo đảm mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Chủ trương hợp tác quốc tế về ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống và những kết quả đạt được

Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế về ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống1 luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) xác định: “Các bên cần phối hợp với nhau giải quyết những vấn đề toàn cầu đang đặt ra trước tất cả các dân tộc và cộng đồng nhân loại, như bùng nổ dân số, lương thực, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường”2. Kể từ đó, nhận thức về ý nghĩa quan trọng của các vấn đề toàn cầu của Việt Nam ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Đại hội X của Đảng (năm 2006) nhận định: “Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng”3. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đánh giá: “Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”4. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tổng kết: “Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới”5. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định nhận thức, quan điểm nhất quán về nội dung, thách thức của an ninh phi truyền thống đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đại hội nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,... tiếp tục diễn biến phức tạp”6. “Những vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng đa dạng, phức tạp, tác động mạnh mẽ”7.

Lý luận về các thách thức an ninh phi truyền thống cũng ngày càng phát triển, phù hợp với bối cảnh của thời đại, trong đó hợp tác quốc tế được quan tâm và thúc đẩy. Chủ trương hợp tác quốc tế trên các vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta phát triển từ “tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu”, sang “tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu”, đến “tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, phối hợp cùng cộng đồng quốc tế hạn chế tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất”. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) xác định phương hướng hợp tác quốc tế là: “Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu”8. Tiếp theo đó, Đại hội  IX của Đảng (năm 2001) nhấn mạnh: “Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương. Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu”9. Đại hội XI của Đảng khẳng định tích cực tham gia, phối hợp cùng cộng đồng quốc tế hạn chế tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất, “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”10. Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác”11. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ “sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống”12...; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Kịp thời đấu tranh trấn áp có hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, tạo vành đai bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh phù hợp với hội nhập quốc tế và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”13.

Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản luật pháp ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống. Theo đó, Việt Nam tích cực, chủ động tham gia các cơ chế hợp tác cả song phương và đa phương với nguyên tắc: 1- Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; 2- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; 3- Tôn trọng độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; 4- Chủ động, tích cực tham gia, phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, khu vực nhất là tại Liên hợp quốc và các cơ chế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể; 5- Tăng cường hợp tác quốc tế cả ở cấp độ song phương và đa phương, nhất là với các đối tác có thế mạnh trên từng lĩnh vực cũng như trong vấn đề Việt Nam có thế mạnh; 6- Phát huy tối đa nội lực, đồng thời tận dụng nguồn lực từ bên ngoài cả về vốn, kỹ thuật và công nghệ phục vụ đầu tư ứng phó trên từng vấn đề, bảo đảm phát triển bền vững; 7- Tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tinh thần tích cực, chủ động tham gia hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống đã giúp Việt Nam đạt được nhiều kết quả quan trọng trong thời gian qua.

Thứ nhất, hội nhập quốc tế trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống góp phần quan trọng vào thành công chung của hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, bảo đảm những lợi ích chính đáng, duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển của đất nước.

Thứ hai, thông qua tích cực hợp tác với các đối tác quốc tế, các quốc gia phát triển, Việt Nam đã khai thác được nhiều thế mạnh, thu hút nguồn lực từ bên ngoài cả về vốn, kỹ thuật và công nghệ phục vụ đầu tư ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống trên từng vấn đề, bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Đơn cử như, trong vấn đề an ninh mạng, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế cả ở cấp độ song phương và đa phương, nhận được sự hỗ trợ của các đối tác để xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế số. Trong vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam đã huy động được hàng trăm triệu USD từ các nhà tài trợ quốc tế, như Văn phòng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Thế giới (WB) và chính phủ các nước, như Ôxtrâylia, Pháp, Đan Mạch, Hà Lan và Na Uy để thực hiện nhiều dự án tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu, như dự án “Thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long” hay “Chương trình Tài trợ ứng phó với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng” do Đại sứ quán Ôxtrâylia phối hợp tài trợ trong 3 năm (2012 - 2015) trị giá 15 triệu USD... Trong vấn đề ứng phó với thách thức an ninh lương thực, Việt Nam đã nhận được nhiều khoản viện trợ lương thực và vật tư trong lĩnh vực nông nghiệp từ các đối tác quốc tế, như Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Chương trình Lương thực thế giới (WFP)... với trị giá lên tới gần 1 tỷ USD.

Thứ ba, việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống góp phần giúp Việt Nam hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật trên từng lĩnh vực, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Ví như, Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 03/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 77-KL/TW, ngày 05/6/2020 của Bộ Chính trị về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước; Kết luận số 81-KL/TW, ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030; Luật An ninh mạng năm 2018; Luật Bảo vệ môi trường năm 2020...

Thứ tư, nâng cao hình ảnh, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Các phái đoàn của Việt Nam đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến cũng như đăng cai nhiều sự kiện quốc tế lớn về các lĩnh vực ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Việt Nam đã thúc đẩy sáng kiến thành lập Trung tâm Y tế ASEAN để ứng phó với các tình huống y tế công cộng khẩn cấp và dịch bệnh mới nổi trong tương lai hay thúc đẩy Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết thành lập Ngày quốc tế phòng, chống dịch bệnh (ngày 27/12 hằng năm), nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, rộng rãi của cộng đồng quốc tế (được 112 quốc gia đồng bảo trợ). Trong ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực sớm đề ra lộ trình, giải pháp thực hiện Thỏa thuận Pari về biến đổi khí hậu năm 2015, tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP-26), khi cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đối với vấn đề an ninh nguồn nước, Việt Nam đề xuất và triển khai nhiều chương trình hợp tác trong các khuôn khổ Ủy hội sông Mê Công quốc tế, Hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS), hợp tác giữa các nước tiểu vùng sông Mê Công với các đối tác. Trong vấn đề an ninh biển, Việt Nam khẳng định ý nghĩa, vai trò quan trọng của việc tuân thủ Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 tại các diễn đàn đa phương và khu vực, khởi xướng Nhóm bạn bè UNCLOS năm 1982 tại Liên hợp quốc (hiện có trên 100 nước thành viên). Trong vấn đề an ninh lương thực, Việt Nam  tham gia mô hình hợp tác ba bên với FAO và các nước đối tác châu Phi về trồng lúa; cử nhiều chuyên gia, chia sẻ kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo và tổ chức một số sự kiện quốc tế lớn, như Hội nghị quốc tế lúa gạo lần thứ ba (năm 2010), Hội nghị toàn cầu lần thứ hai về nông nghiệp, an ninh lương thực và biến đổi khí hậu (năm 2012).

Tuy nhiên, hợp tác quốc tế trong các vấn đề an ninh phi truyền thống của Việt Nam có lúc, có nơi còn thiếu chủ động, chưa theo kịp với những diễn biến của tình hình, cụ thể:

Một là, nhận thức, hiểu biết về các thách thức an ninh phi truyền thống chưa thực sự đầy đủ và  sâu, nhất là về tính chất, khía cạnh an ninh, vẫn thiên về nắm bắt diễn biến của vấn đề. Chẳng hạn, các vùng biển nói chung, Biển Đông nói riêng là môi trường gắn liền với nhiều thách thức an ninh phi truyền thống, như ô nhiễm môi trường biển, di cư bất hợp pháp, nạn buôn người, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia... Thế nhưng, các khía cạnh này chưa được quan tâm cao. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nhận thức thiếu đầy đủ và chậm xây dựng chiến lược đối phó với một số vấn đề mới, như an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, rác thải nhựa đại dương...

Hai là, còn lúng túng trong việc xác định mục tiêu, biện pháp, phương thức và mức độ tham gia tại các diễn đàn đa phương cũng như những vấn đề cần thúc đẩy, vận động. Với một số vấn đề an ninh phi truyền thống mới, phức tạp, việc chưa xác định được lợi ích, nhu cầu có thể dẫn đến việc ủng hộ quan điểm không phù hợp với lợi ích hoặc rơi vào thế phải “chọn bên” trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, tập hợp lực lượng ngày càng linh hoạt, cơ hội và thời điểm phải chớp thời cơ, tranh thủ hợp tác không nhiều.

Ba là, cơ chế trao đổi thông tin, phối hợp giữa các bộ, ngành còn hạn chế; thiếu đội ngũ chuyên gia chuyên sâu về các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế. Đội ngũ cán bộ ngoại giao thuần thục kỹ năng đối ngoại và ngoại ngữ, nhưng thường thiếu chuyên môn sâu về từng lĩnh vực cụ thể, trong khi cán bộ các bộ, ngành nắm vững chuyên môn lại hạn chế về kỹ năng ngoại ngữ. Việc thiếu hụt đội ngũ chuyên gia làm việc tại các tổ chức đa phương khu vực và quốc tế cũng đồng nghĩa với việc thiếu đi các “ăngten” thu - phát về chính sách, chiều hướng hoạt động của các cơ chế đa phương trong lĩnh vực ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.

Bốn là, áp lực trong xử lý các mối quan hệ hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống. Trong bối cảnh hợp tác, cạnh tranh quốc tế đan xen phức tạp như hiện nay, Việt Nam đứng trước nhiều thách thức trong xử lý cân bằng các mối quan hệ quốc tế, cũng như giữa vấn đề đối nội và đối ngoại trong hợp tác quốc tế ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là trong vấn đề biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước tại tiểu vùng sông Mê Công và an ninh biển tại Biển Đông. Đồng thời, Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ các nước lớn giảm cam kết hỗ trợ trong ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống khi nhiều nước đang phải ưu tiên nguồn lực để giải quyết nhiều vấn đề quốc tế khác.

Xu hướng và một số đề xuất trong hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống của Việt Nam thời gian tới

Mặc dù nhận được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế, song việc thiếu các hành động thiết thực, đồng bộ giữa các chủ thể khiến các thách thức an ninh phi truyền thống chưa được đẩy lùi, dự báo còn diễn biến khó lường, phức tạp hơn trong thời gian tới.

Thứ nhất, các thách thức an ninh phi truyền thống trở nên trầm trọng, phức tạp, khó dự báo hơn, với quy mô và tác động sâu rộng, đan xen phức tạp và nguy cơ ra đời của các loại hình thách thức an ninh phi truyền thống mới. Đáng quan ngại hàng đầu là nguy cơ biến đổi khí hậu khi nhiệt độ bề mặt trái đất dự báo có thể tăng 3,20C so với thời kỳ tiền công nghiệp14, dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học, nước biển dâng, hạn hán, lũ lụt, cháy rừng và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác, đe dọa xóa tên nhiều quốc đảo. Theo ước tính của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), tổn thất trực tiếp do thiên tai đối với kinh tế thế giới khoảng 3.000 tỷ USD trong giai đoạn 1998 - 2017 và thiệt hại gián tiếp có thể lên tới 1.000 tỷ USD/năm15. Hàng loạt dịch bệnh nguy hiểm đã liên tục bùng phát trong hai thập niên qua, như dịch SARS tại khu vực châu Á (năm 2003), dịch MERS-CoV tại Trung Đông (năm 2012), dịch Ebola tại châu Phi (năm 2013 - 2016) và mới đây nhất là đại dịch Covid-19, tác động toàn diện, nghiêm trọng, lâu dài tới phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia.

Bên cạnh đó, các vấn đề như an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh biển, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh mạng, di cư qua các hình thức không chính thức (irregular migration) cũng ngày càng nghiêm trọng, được xem là những thách thức lớn, hiện hữu. Dự báo đến năm 2030, khoảng 50% dân số thế giới sẽ sống trong tình trạng căng thẳng cao về nước, 67% dân số có thể sống trong điều kiện thiếu nước, nhu cầu về nước của con người vượt cung tới 40%. Nạn đói hoặc tình trạng thiếu lương thực diễn biến phức tạp trên toàn thế giới, khiến 2 tỷ người đang sống trong hoàn cảnh mất an ninh lương thực ở mức độ trung bình. Hoạt động khủng bố và các loại hình tội phạm xuyên quốc gia, như rửa tiền, buôn bán người, vũ khí, ma túy tiếp tục diễn biến phức tạp về quy mô và phương thức, gây hậu quả nặng nề. Năm 2021, theo đánh giá của giới nghiên cứu, tội phạm sử dụng công nghệ cao đã gây thiệt hại khoảng 6.100 tỷ USD và dự kiến tăng lên 10.500 tỷ USD vào năm 202516. Sự phụ thuộc vào không gian mạng cũng làm nảy sinh các nguy cơ tấn công mạng vì mục đích chính trị, vấn nạn tin giả, ngôn ngữ thù địch (hate speech), các tổ chức khủng bố lợi dụng để tuyển quân, tạo thu nhập phi pháp, rửa tiền, kích động bạo lực, truyền bá tư tưởng cực đoan...

Thứ hai, các thách thức an ninh phi truyền thống tác động ngày càng lớn tới sự phát triển của các quốc gia, vùng lãnh thổ, nền kinh tế, nhất là các nước đang phát triển, các quốc đảo nhỏ. Do vị trí địa lý bất lợi, nguồn lực còn hạn chế, nền kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào môi trường, tài nguyên thiên nhiên và kinh tế - thương mại quốc tế, các nước đang phát triển, quốc đảo nhỏ sẽ là những chủ thể dễ bị tổn thương nhất trước tác động của các thách thức an ninh phi truyền thống. Các thách thức an ninh phi truyền thống sẽ khiến những chủ thể này ngày càng gặp khó khăn trong việc thực hiện các mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, tăng trưởng và phát triển bền vững, gia tăng nguy cơ phải xử lý các cuộc xung đột, tranh chấp liên quan đến các nguồn tài nguyên trong khu vực. Bên cạnh đó, các quốc gia vừa và nhỏ cũng đối mặt với nguy cơ các nước lớn sử dụng các vấn đề an ninh phi truyền thống để can thiệp vào công việc nội bộ, tập hợp lực lượng trong cạnh tranh chiến lược nước lớn.

Thứ ba, xu thế hợp tác, cạnh tranh giữa các nước và nhóm nước xung quanh các vấn đề an ninh phi truyền thống đan xen phức tạp, song nhu cầu hợp tác quốc tế để đối phó với các thách thức này vẫn đóng vai trò chủ đạo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng khốc liệt, mở rộng về phạm vi, tạo áp lực chính trị hóa các vấn đề an ninh và phát triển, phân tuyến lợi ích, thậm chí đặt các nước đang phát triển vào thế kẹt, hay phải “chọn bên”. Ví dụ như, xung đột lợi ích giữa Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc, Ấn Độ xung quanh vấn đề áp thuế nông nghiệp, trở thành một trong những nguyên chính khiến vòng đàm phán Doha bế tắc, vấn đề an ninh lương thực ngày càng xấu đi. Sự phân hóa, cạnh tranh, xung đột quan điểm giữa các nhóm nước phương Tây với Nga, Trung Quốc, các nước Phong trào Không liên kết về vấn đề tội phạm xuyên quốc gia hay đấu tranh văn kiện cứng rắn của Nga, Trung Quốc, Ấn Độ tại COP-26 về việc cắt giảm thay vì loại bỏ điện, than khiến các nỗ lực hợp tác quốc tế, giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống gặp nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, trong bối cảnh các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng trầm trọng, đe dọa tới sự phát triển, tồn vong của nhiều cộng đồng, quốc gia, nền kinh tế, hợp tác quốc tế trong vấn đề này vẫn sẽ được chú trọng và đẩy mạnh. Ngày 23/02/2021, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres đã kêu gọi đẩy mạnh hơn nữa sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức quốc tế để giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống, trong đó cấp thiết nhất là tình trạng biến đổi khí hậu và những vấn đề ảnh hưởng liên quan. Tại kỳ họp Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 76 vào tháng 9/2021, Mỹ kêu gọi thế giới phải “hợp tác ở mức chưa từng có” để giải quyết các thách thức toàn cầu, trong đó có các thách thức an ninh phi truyền thống đang ngày càng trở nên cấp bách.

Trong bối cảnh các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng lớn, xu thế hợp tác quốc tế vẫn giữ vai trò chủ đạo, trên cơ sở chủ trương, đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XIII, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục nhất quán chủ trương đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống nhằm: 1- Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; 2- Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; 3- Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, tranh thủ tối đa các điều kiện và nguồn lực quốc tế; 4- Khẳng định mạnh mẽ vai trò của Việt Nam là thành viên tích cực, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, xem xét đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể. Theo đó, để thực hiện có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, Việt Nam cần:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hợp tác quốc tế giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống. Việt Nam cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền cho các cấp, các ngành và nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng ngày càng tăng của hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội và các thách thức an ninh phi truyền thống trong việc góp phần nâng cao “sức mạnh mềm”, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.

Thứ hai, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong triển khai hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, với một số chính sách, biện pháp cụ thể, như: 1- Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chủ trương, quan điểm tại các văn bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam liên quan đến giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống; 2- Kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân trong triển khai hợp tác quốc tế, bảo đảm tính tổng thể, gắn kết, tuân thủ các mục tiêu, định hướng chung; 3- Tăng cường hợp tác và phát huy vai trò tại các diễn đàn đa phương về các lĩnh vực an ninh phi truyền thống, nhất là các vấn đề có thế mạnh, như an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu hoặc có lợi ích trực tiếp tại các cơ chế đa phương, như ASEAN, Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); 4- Tổ chức thực hiện thực chất, hiệu quả các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia; 5- Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống theo hướng chuyên nghiệp, có đủ bản lĩnh chính trị, trình độ và kỹ năng trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa; 6- Bảo đảm ngân sách, cơ chế tài chính phù hợp và linh hoạt để triển khai các hoạt động hợp tác, phù hợp với nhu cầu và điều kiện cụ thể.

Thứ ba, phối hợp thúc đẩy nghiên cứu, dự báo chiến lược, xây dựng chủ trương ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống một cách toàn diện, tổng thể và liên ngành, trong đó xác định rõ lập trường, nội hàm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong tham gia xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống liên quan tại các diễn đàn khu vực, quốc tế và trong quan hệ với các đối tác quốc tế, trước mắt ưu tiên trong ứng phó và khôi phục kinh tế - xã hội hậu Covid-19, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, sạch, giảm phát thải ròng, ngoại giao vắc-xin...

Thứ tư, tăng cường huy động mạng lưới các cơ quan đại diện, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tìm hiểu, hỗ trợ cung cấp thông tin liên quan đến cơ chế, chính sách, kinh nghiệm của các nước cũng như hỗ trợ tham gia các diễn đàn đa phương, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế.

Thứ năm, tiếp tục thực hiện chủ trương vừa hợp tác, vừa đấu tranh, phân biệt rõ đối tác, đối tượng trong hợp tác quốc tế ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, tránh bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm can thiệp vào công việc nội bộ, chủ động phòng ngừa “từ sớm, từ xa” các âm mưu xấu, tận dụng hiệu quả hợp tác quốc tế trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

1. Các thách thức an ninh phi truyền thống nhìn chung được xác định theo hai cách đề cập chính. Thứ nhất, đây là các thách thức bắt nguồn từ những vấn đề không thuộc an ninh “truyền thống”, như độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và quyền lực chính trị của một nhà nước. Thứ hai, đây là các thách thức đối với sự tồn tại và tình trạng của quốc gia và con người, bắt nguồn từ những yếu tố không có tính chất vũ trang (trừ trường hợp tham gia hoạt động cứu trợ), đòi hỏi các giải pháp toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội. Một số thách thức an ninh phi truyền thống được thế giới thừa nhận rộng rãi là dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh mạng và vấn đề di cư.


2, 3, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 718; t. 65, tr. 181; t. 55, tr. 400; t. 60, tr. 208.

4, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 183-184, 233.
5, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 72, 155.

6, 7, 12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 106-107, 208, 279, 281.

14. Xem H. Lan: Liên hợp quốc: Trái đất có thể tăng 3,2 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 05/4/2022, https://nhandan.vn/moi-truong/lien-hop-quoc-trai-dat-co-the-tang-3-2-do-c-so-voi-thoi-ky-tien-cong-nghiep-691987/.

15. Xem UNDP: Annual Report 2020 (Tạm dịch: Báo cáo thường niên năm 2020), https://www.undrr.org/undrr-2020.

16. Xem Steve Morgan: Cybercrime to cost the world $10.5 trillion annually by 2025 (Tạm dịch: Tội phạm mạng khiến thế giới thiệt hại 10,5 nghìn tỷ USD hằng năm đến năm 2025), Cybercrime Magazine, ngày  13/11/2020, https://www.cybersecurityventures.com/cybercrime-damage-costs-10-trillion-by-2025/.

Theo Tạp chí Cộng sản

Thu Hằng tổng hợp

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin