Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo

Nguyễn Thu Hằng

CT&PT - Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự nghiệp giáo dục của đất nước, coi giáo dục là một trong những phương tiện quan trọng nhất để nâng cao năng lực và phẩm chất con người, trước hết là củng cố lòng yêu nước và hoàn thiện nhân cách. Cho đến nay, những chỉ dẫn của Người về vai trò, nội dung và phương pháp giáo dục vẫn còn vẹn nguyên giá trị, soi đường cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của đất nước, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục và đào tạo

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi rất nhiều nơi, làm nhiều nghề khác nhau, trong đó nghề đầu tiên Người lựa chọn là nghề dạy học ở Trường Dục Thanh, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (từ tháng 9/1910 đến tháng 02/1911). Ngày 05/6/1911, tại Bến Nhà Rồng, người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lên tàu buôn Đô đốc Latouche Tréville xin làm phụ bếp, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.

Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, Người thường xuyên tham gia đấu tranh chống chính sách ngu dân của thực dân Pháp, Người yêu cầu: “Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”1.

Nhận thấy rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục đối với sự phát triển đất nước, Người khẳng định: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa”2. “Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”3.

Sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 02/9/1945), ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “… nạn dốt Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”4. Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng (ngày 31/10/1955), Người căn dặn: “Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến. Muốn được như thế thì thầy giáo, học trò và cán bộ phải cố gắng hơn nữa để tiến bộ hơn nữa”5.

Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, trong đó yếu tố then chốt quyết định chất lượng giáo dục là đội ngũ thầy, cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Là “người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa”, thầy, cô giáo có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Người khẳng định: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục…”6. Thầy, cô giáo là người định hướng, dẫn dắt các thế hệ học sinh từng bước nắm bắt chân lý thời đại, mọi tài liệu, giáo trình dù hay đến đâu cũng không thể phát huy hết tác dụng nếu không có sự hướng dẫn của người thầy. Người thầy là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục, và sản phẩm của quá trình dạy học là tương lai của dân tộc. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của các thầy giáo, cô giáo đối với xã hội, xem đây là yếu tố quan trọng quyết định thành công của công cuộc xây dựng và đổi mới nền giáo dục nước nhà. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và cuộc đời đấu tranh vĩ đại của mình, Người luôn coi “con người” là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định sự nghiệp cách mạng, vì vậy, Người thường xuyên nhắc nhở: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”7. Câu nói đó của Người không chỉ khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của sự nghiệp giáo dục, mà còn nhấn mạnh trọng trách lớn lao của nhà giáo, của nghề “dạy chữ, dạy người”. Đối với thế hệ trẻ, Người luôn đặt niềm kỳ vọng to lớn: “Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong, chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”8. Theo đó, giáo dục thế hệ trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục không chỉ dừng lại ở việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà còn phải chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, có tài, có đức, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức, sức khỏe và thẩm mỹ... Muốn vậy, phải thông qua “dạy chữ” để “dạy người”, “Huấn luyện thì phải hiểu rõ người học để nâng cao khả năng và tẩy rửa khuyết điểm cho họ. Phải huấn luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc”9. “Học để làm gì?, a) Học để sửa chữa tư tưởng: Hăng hái theo cách mạng điều đó rất hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế, cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn nhiệm vụ cách mạng được. b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. c) Học để tin tưởng: Tin tưởng vào Đoàn thể. Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Tin tưởng vào tương lai cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh. d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”10.

Theo Người, nội dung dạy học phải phục vụ cho mục đích dạy học nhất định. Chế độ nào gắn với nền giáo dục đó, cùng với những yêu cầu cụ thể theo từng giai đoạn, thời kỳ. Người xác định: “Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Vì vậy, chúng ta: 1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. 2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các trường. 3. Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc. 4. Chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến và kiến quốc. 5. Về bình dân học vụ, nhờ sự hy sinh cố gắng của nam nữ giáo viên, đã có kết quả rất tốt đẹp. Bây giờ, số đông đồng bào đã biết đọc biết viết thì chúng ta phải có một chương trình để nâng cao thêm trình độ văn hóa phổ thông của đồng bào”11. Người yêu cầu nội dung dạy học phải toàn diện, song phải căn cứ vào đặc điểm nghề nghiệp và trình độ của đối tượng để có chương trình thích hợp, thiết thực, “Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy”12. Người chỉ rõ: “Huấn luyện chính trị, môn nào cũng phải có. Nhưng phải tùy theo mỗi môn mà định nhiều hay ít. Thí dụ: cán bộ chuyên môn về y tế, về văn nghệ, v.v., thì ít hơn. Cán bộ về tuyên truyền, tổ chức, v.v., thì phải nghiên cứu chính trị nhiều hơn”13.

3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục

Một là, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Huấn luyện lý luận có hai cách: Một cách là chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích. Một cách là trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích14.

Trong buổi nói chuyện với lớp Nghiên cứu lý luận khóa I, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Người nhấn mạnh: “Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”15. Nguyên tắc đó một lần nữa được Người chỉ rõ trong Diễn văn khai mạc lớp học khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc: “- Khi học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch. - Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc. Nhưng chúng ta phải học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta. Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta”16. Gắn lý luận với thực tiễn đòi hỏi “Học phải đi đôi với hành”17. Theo Người: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”18.

Hai là, dạy học phải hiểu rõ đối tượng

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng”19. Do đó, “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”20. Người đặc biệt lưu ý: “Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui đều học. Muốn vậy thì các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc mật thiết với cha mẹ và thầy giáo của nhi đồng”21; “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa. - Đồng thời phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những “người già sớm”)”22. Vì thế, theo Người “Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn”23.

Ba là, dạy học phải thiết thực, cơ bản

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Việc cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề. Nhưng hiểu thấu cũng có nhiều cách: có cách hiểu thấu thật tỉ mỉ, nhưng dạy theo cách đó thì phải tốn nhiều thì giờ. Trái lại cũng có cách dạy bao quát mà vẫn làm cho người học hiểu thấu được”24. Ví dụ: muốn dạy cho người ta biết về con voi, có thể mô tả khái quát đặc điểm, hình dáng của nó, giúp người học không nhầm lẫn con voi với loài khác. Người yêu cầu huấn luyện phải thiết thực, “sao cho những người đến học, học rồi, về địa phương họ có thể thực hành ngay”25.

Bốn là, dạy học phải rõ ràng, dễ hiểu

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem”26. Vì vậy, “Chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải học cách nói của quần chúng, mới nói lọt tai quần chúng”27.

Năm là, học tập suốt đời

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”28.

Người chia sẻ: “Tôi năm nay 71 tuổi mà vẫn phải học mỗi ngày. Học không biết mỏi. Học phải có mục đích, như người thợ làm nhà, trước khi làm đã biết cái nhà ra sao, không phải như con ong, làm tổ theo thói quen bản nhiên. Mục đích của sự học là thành nhân, là chỉnh tâm, là trau dồi lý trí. Người cán bộ trước phải biết chỉnh mình, sau mới chỉnh người khác, mình không chỉnh thì còn mong chỉnh ai? Đã trau dồi lý thuyết, còn phải trau dồi tình cảm nữa, phải lo xây dựng nhân cách của mình, phải biết ăn ở xử thế có tình, có nghĩa, tình nghĩa giữa người và người, tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”29. “Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già cho nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng”30. Đối với người làm thầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình. Lênin khuyên chúng ta: “Học, học nữa, học mãi”. Mỗi người đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó, những người huấn luyện lại càng phải ghi nhớ hơn ai hết. Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”31.

Sáu là, phải có thái độ học tập đúng đắn

Theo Người, “Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát thì mới có phương hướng để sửa chữa khuyết điểm của mình”32. Nhấn mạnh vai trò của thanh niên với tư cách người chủ của một nước độc lập, tự do, Người chỉ rõ: “Muốn xứng đáng vai trò người chủ, thì phải học tập. Học bây giờ với học dưới chế độ thực dân, phong kiến khác hẳn nhau. Bây giờ phải học để: - Yêu Tổ quốc: cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu lao động: ai khinh rẻ lao động, chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu khoa học: cái gì trái với khoa học, chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu đạo đức: chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm; xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động. Học để phụng sự ai? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”33.

Người đề cao đức tính khiêm tốn, thật thà: “Trong Đảng ta trình độ lý luận còn thấp kém, không ai có thể tự xưng mình là giỏi lý luận. Do đó phải nêu cao tinh thần khiêm tốn, thật thà... Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập34; đồng thời yêu cầu phải tự nguyện, tự giác, chống học vẹt: “Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập”35. Bên cạnh đó, Người yêu cầu trong học tập “- Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa. - Phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau học tập, mạnh dạn phê bình và thật thà tự phê bình và khi phê bình, tự phê bình thì phải xuất phát từ ý muốn đoàn kết, để đạt đến đoàn kết mới trên cơ sở mới”36.

4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển giáo dục và đào tạo hiện nay

Kế thừa và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tiếp tục khẳng định quan điểm: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”37. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo”38, nhằm chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không có đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ39

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, góp phần thúc đẩy giáo dục phát triển, điển hình là: Luật Giáo dục năm 2005, Luật Dạy nghề năm 2006, Luật Giáo dục đại học năm 2012, Hiến pháp năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014...; đồng thời ban hành các cơ chế, chính sách về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, về cơ hội tiếp cận giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách, bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo…

Hiện nay, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế thế giới đang chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu nhất là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức, sử dụng tri thức và biến tri thức thành giá trị. Theo đó, lợi thế cạnh tranh ngày nay không còn nằm chủ yếu ở tài nguyên thiên nhiên hay lao động giá rẻ, mà nghiêng về tiềm lực tri thức, khoa học và công nghệ - sản phẩm sáng tạo của con người. Vì vậy, phải xây dựng nền giáo dục Việt Nam nhân bản, hiện đại, phát huy cao nhất mọi năng lực, phẩm chất của con người, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.

Đề cập yêu cầu đối với nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất. Đại hội xác định: “Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo”40. Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo gắn với đổi mới cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả đầu tư. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo đúng hướng, hiệu quả. Đầu tư thích đáng cho giáo dục và đào tạo chất lượng cao, trình độ cao; phát triển giáo dục ở miền núi, vùng cao, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp vụ, chuyên môn trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn định các phương thức đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo, thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh vào các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Thúc đẩy tinh thần học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập41...

Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước nhằm chuẩn bị nhân tài, lực lượng lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Trước hết, mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục cần thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, từ đó vận dụng sáng tạo trong quá trình công tác, tổ chức tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp “trồng người”, vì một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, hôm nay và mai sau.


1, 3, 30. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 469; t. 12, tr. 333; t. 15, tr. 113.

2, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 345.

4, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 7, 34-35.

5, 23. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 185-186, 186. 7, 16, 32, 36. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 528, 95-96, 400, 99.

9, 10, 24, 31. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 359, 360-361, 357-358, 356.

11, 12, 13, 14, 18, 19, 20, 25, 26, 27. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 575, 309, 311, 311-312, 275, 288, 346, 343, 340, 341.

15, 28. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 377.

17, 33. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 179, 178-179.

21, 22. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 250.

29. GS, TS. Trần Văn Giàu: Vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 98-99.

34, 35. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 98.

37, 38, 39. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr. 119, 136, 136-138.

40, 41. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 232, 136-139.

PGS, TS. VŨ QUANG VINH

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin