Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay

CT&PT - Bài viết tập trung phân tích những yêu cầu khách quan và chủ quan đặt ra đối với việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hiện nay; làm rõ thực trạng và nguyên nhân những bất cập trong phương thức lãnh đạo; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm vai trò hạt nhân chính trị, nâng cao năng lực cầm quyền và uy tín của Đảng.

1. Nội hàm và vai trò của phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam, phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam được hiểu là hệ thống các nguyên tắc, cơ chế, phương pháp và hình thức mà thông qua đó, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền đối với Nhà nước và toàn xã hội. Đây là yếu tố cốt lõi bảo đảm sự vận hành đúng đắn của hệ thống chính trị và sự phát triển bền vững của đất nước.

Phương thức lãnh đạo là cách thức Đảng tác động đến các tổ chức trong hệ thống chính trị, đến toàn xã hội nhằm tổ chức thực hiện hiệu quả cương lĩnh, đường lối của Đảng. Trong khi đó, phương thức cầm quyền là cách thức Đảng sử dụng quyền lực chính trị để định hướng, điều tiết và kiểm soát quyền lực nhà nước trên cơ sở luật pháp, thể chế, bảo đảm quyền lực của nhân dân được thực thi trên thực tế.

Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền duy nhất, thì phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền vừa có tính thống nhất vừa có sự phân biệt. Nếu phương thức lãnh đạo nghiêng về khía cạnh định hướng, tổ chức và dẫn dắt toàn hệ thống chính trị, thì phương thức cầm quyền nhấn mạnh vào trách nhiệm của Đảng trong việc sử dụng quyền lực chính trị thông qua các thiết chế nhà nước và xã hội để quản trị quốc gia.

Vai trò của phương thức lãnh đạo, cầm quyền đúng đắn là then chốt trong việc khẳng định và giữ vững vai trò hạt nhân chính trị của Đảng. Một phương thức lãnh đạo khoa học, dân chủ, phù hợp với bối cảnh phát triển mới sẽ giúp Đảng tăng cường năng lực tổ chức, điều hành, kiểm tra và giám sát. Đồng thời, điều đó còn giúp phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát, phản biện, qua đó củng cố niềm tin của xã hội vào Đảng.

Trong giai đoạn trước đây, Đảng lãnh đạo chủ yếu theo mô hình chỉ đạo trực tiếp, hành chính, mang tính bao trùm và can thiệp sâu vào hoạt động của các thiết chế nhà nước. Mô hình này phù hợp trong điều kiện cách mạng và thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số mạnh mẽ và phát triển xã hội dân sự, thì mô hình lãnh đạo theo kiểu bao trùm, làm thay cần phải được thay đổi.

Đảng cần chuyển từ lãnh đạo bằng mệnh lệnh hành chính sang lãnh đạo bằng định hướng chiến lược, xây dựng tầm nhìn, tạo lập môi trường thể chế thuận lợi cho phát triển. Đồng thời, phải giảm thiểu tình trạng lạm quyền, chồng chéo với chức năng quản lý nhà nước, đảm bảo Nhà nước thực sự là thiết chế tổ chức thực hiện quyền lực nhân dân theo đúng Hiến pháp và pháp luật.

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền còn là yêu cầu tất yếu từ chính sự vận động nội tại của Đảng. Với hơn 5 triệu đảng viên, sinh hoạt trong hàng vạn tổ chức đảng các cấp, nếu phương thức lãnh đạo không phù hợp sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hình thức, giáo điều, xa rời thực tiễn và nhân dân. Đổi mới phương thức chính là nhằm phát huy dân chủ trong Đảng, nâng cao tính chiến đấu, tính phản biện và năng lực tổ chức hành động của các tổ chức đảng.

Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng xác định rõ yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực chất của nhân dân; tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, siết chặt kỷ luật, kỷ cương”. Đây là kim chỉ nam cho việc nhận thức và triển khai đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền trong tình hình mới.

Ngoài ra, phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay không thể tách rời yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi quyền lực phải được phân công, phối hợp, kiểm soát và được thực hiện thông qua pháp luật. Như vậy, phương thức cầm quyền phải bảo đảm rằng Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối; còn Nhà nước tổ chức thực hiện, chịu trách nhiệm trước nhân dân về kết quả quản trị quốc gia. Việc chồng chéo, nhập nhằng giữa lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng và can thiệp trực tiếp sẽ làm suy yếu cả hệ thống.

Tóm lại, đổi mới phương thức lãnh đạo và cầm quyền không chỉ là sự thay đổi về kỹ thuật, cơ chế điều hành, mà là sự thay đổi căn bản về tư duy chính trị, phong cách lãnh đạo, cách tiếp cận quyền lực và trách nhiệm với nhân dân. Đó là một tiến trình mang tính chiến lược, cần được tiến hành một cách kiên định, bài bản và có lộ trình cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân dân.

2. Thực trạng phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay

Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng nỗ lực đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, nguyện vọng của nhân dân và xu thế tiến bộ của thời đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật, vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập cả về nhận thức, cơ chế và tổ chức thực hiện. Cụ thể là:

Một trong những kết quả đáng ghi nhận là Đảng đã từng bước chuyển từ phương thức lãnh đạo chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính sang lãnh đạo bằng định hướng chiến lược, xây dựng thể chế và tổ chức thực hiện. Vai trò lãnh đạo của Đảng không còn gắn với việc “làm thay” cơ quan nhà nước mà thể hiện qua việc ban hành các nghị quyết, chỉ đạo định hướng lớn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

Việc thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật ngày càng được chú trọng. Các chủ trương lớn của Đảng được cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật và triển khai tương đối đồng bộ, nhờ đó khoảng cách giữa đường lối và thực tiễn được thu hẹp đáng kể.

Đảng cũng tích cực phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong việc triển khai nhiệm vụ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tạo điều kiện để tham gia phản biện chính sách, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần tăng cường sự đồng thuận xã hội và phát huy dân chủ.

Một thành tựu quan trọng khác là công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phục vụ cho hoạch định chính sách. Các hội nghị Trung ương, phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều tập trung vào những vấn đề cốt lõi của đất nước như mô hình tăng trưởng, hoàn thiện thể chế, đổi mới hệ thống chính trị, phát triển văn hóa, con người…

Phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng mang tính dân chủ, pháp quyền, công khai và minh bạch. Các dự thảo văn kiện Đại hội, nghị quyết lớn đều được công bố lấy ý kiến rộng rãi, thể hiện tinh thần cầu thị, dân chủ và tiếp thu phản biện xã hội một cách thực chất. Cách làm này góp phần nâng cao chất lượng quyết sách và tính chính danh trong quá trình lãnh đạo.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có những chuyển biến mạnh mẽ. Việc triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII đã khẳng định quyết tâm chính trị cao trong làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực cầm quyền và uy tín của Đảng. Nhiều cán bộ sai phạm, kể cả cán bộ cấp cao, đã bị xử lý nghiêm minh.

Ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số được đẩy mạnh. Các phần mềm quản lý văn bản, họp trực tuyến, cơ sở dữ liệu đảng viên giúp tăng tính hiện đại, minh bạch và hiệu quả trong điều hành. Đảng cũng tăng cường giám sát, kiểm tra lẫn nhau giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò của Ủy ban Kiểm tra các cấp.

Một dấu ấn quan trọng khác là việc đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, nhất là người đứng đầu. Quy định số 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương là bước đột phá trong phương thức lãnh đạo, chuyển từ quản lý hành chính sang lãnh đạo bằng đạo đức, trách nhiệm và niềm tin.

Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, song phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng vẫn còn một số tồn tại. Trước hết, việc phân định rạch ròi giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ở một số nơi còn chưa rõ. Có nơi cấp ủy vẫn bao biện, làm thay chính quyền hoặc can thiệp sâu vào hoạt động chuyên môn, gây ra tình trạng chồng chéo, kém hiệu lực.

Việc cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng trong một số lĩnh vực còn chậm, thiếu đồng bộ hoặc chưa sát với thực tiễn. Một số nghị quyết khi triển khai còn hình thức, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện nghiêm túc. Công tác theo dõi, đánh giá hiệu quả tổ chức thực hiện chưa đầy đủ, dẫn đến khó kiểm chứng hiệu quả.

Tình trạng hình thức, mệnh lệnh, hành chính hóa trong lãnh đạo vẫn còn phổ biến ở một số cấp ủy, làm giảm tính sáng tạo, chủ động của chính quyền và tổ chức cơ sở. Một số tổ chức đảng còn hoạt động cầm chừng, nặng về báo cáo thành tích, ngại va chạm, thiếu tính chiến đấu.

Cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả. Tình trạng lạm quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích nhóm, cá nhân vẫn còn diễn ra. Việc phát hiện và xử lý cán bộ vi phạm chủ yếu vẫn là biện pháp hậu kiểm thay vì phòng ngừa chủ động, cho thấy sự hạn chế trong phương thức lãnh đạo kiểm soát quyền lực.

Công tác giám sát và phản biện xã hội còn mang tính hình thức. Nhiều ý kiến góp ý của nhân dân, trí thức, báo chí chưa được tiếp thu thỏa đáng hoặc phản hồi rõ ràng. Các tổ chức đoàn thể chưa phát huy hết vai trò làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa chủ trương và thực tiễn đời sống.

Tình trạng né tránh, ngại va chạm trong tự phê bình và phê bình vẫn còn, làm giảm hiệu quả trong việc phát hiện và ngăn chặn sai phạm từ sớm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn tư duy nhiệm kỳ, chưa đặt lợi ích của tổ chức, đất nước lên trên lợi ích cá nhân.

Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: Thứ nhất, về nhận thức: Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa hiểu đầy đủ, sâu sắc về nội hàm và yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền. Còn có sự nhầm lẫn giữa lãnh đạo và chỉ huy, giữa định hướng và can thiệp hành chính, dẫn đến tình trạng lạm quyền hoặc buông lỏng giám sát. Thứ hai, về thể chế: Cơ chế phân công, phối hợp giữa các tổ chức đảng với cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa được hoàn thiện đầy đủ. Một số quy định còn chồng chéo, thiếu cơ chế kiểm tra độc lập, chưa có công cụ pháp lý rõ ràng để thực hiện giám sát quyền lực trong Đảng. Thứ ba, về tổ chức thực hiện: Nhiều nơi còn tình trạng thực hiện nghị quyết theo kiểu “phong trào”, chưa có sự chuẩn bị đầy đủ về nguồn lực và cán bộ. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết chưa chặt chẽ, hiệu quả phản hồi từ cơ sở lên cấp trên còn yếu. Thứ tư, về đội ngũ cán bộ: Một số cán bộ còn thiếu năng lực tư duy chiến lược, kỹ năng lãnh đạo hiện đại, khả năng ứng xử với truyền thông và xã hội dân sự. Đạo đức công vụ, tinh thần trách nhiệm và ý thức nêu gương chưa đáp ứng yêu cầu, ảnh hưởng đến hiệu lực lãnh đạo của Đảng. Thứ năm, về văn hóa chính trị: Tư duy bao cấp, tư tưởng trung ương tập quyền còn ăn sâu ở nhiều cấp lãnh đạo, dẫn đến tình trạng thụ động, trông chờ, ngại đổi mới. Văn hóa phê bình, phản biện trong nội bộ Đảng chưa thực sự phát triển, làm hạn chế năng lực tự chỉnh đốn.

3. Một số giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay

Từ những phân tích thực trạng ở trên, có thể thấy rằng quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã và đang đạt được nhiều kết quả quan trọng nhưng vẫn còn những hạn chế, thách thức cần tiếp tục được khắc phục. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn tới, cần tập trung triển khai một số nhóm giải pháp đồng bộ, thực chất và lâu dài dưới đây:

Tiếp tục hoàn thiện nhận thức lý luận và thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng.

Đổi mới phương thức lãnh đạo phải bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận. Cần tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó làm rõ nội hàm, đặc điểm và các nguyên tắc tổ chức thực hiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền hiện đại, dân chủ và hiệu quả.

Trên cơ sở đó, cần thể chế hóa một cách đầy đủ, rõ ràng vai trò, trách nhiệm và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với từng lĩnh vực, từng cấp độ. Các nghị quyết, quy định của Đảng phải được thiết kế cụ thể hơn về nội dung, đối tượng, lộ trình thực hiện, gắn với cơ chế kiểm tra, đánh giá và chế tài trách nhiệm rõ ràng.

Bảo đảm sự phân định rõ giữa lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và điều hành của chính quyền các cấp.

Một nguyên tắc quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo là Đảng không làm thay các cơ quan nhà nước, không can thiệp sâu vào công tác điều hành hành chính, mà thực hiện vai trò định hướng, giám sát và kiểm tra. Cần hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp giữa cấp ủy, tổ chức đảng với chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, tránh tình trạng chồng chéo, lạm quyền hoặc buông lỏng.

Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng phải do chính quyền các cấp chịu trách nhiệm chính. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối; chính quyền cụ thể hóa thành kế hoạch, pháp luật và tổ chức thực hiện theo tinh thần phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội.

Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, nâng cao năng lực, đạo đức và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Cán bộ là khâu then chốt, quyết định chất lượng và hiệu quả đổi mới phương thức lãnh đạo. Cần tiếp tục hoàn thiện các tiêu chuẩn chức danh, quy trình bổ nhiệm, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, công khai, minh bạch và dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ.

Đồng thời, xây dựng cơ chế tuyển chọn, thu hút người tài, người có tư duy đổi mới, tinh thần phục vụ nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Tăng cường trách nhiệm nêu gương, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước các cấp.

Bên cạnh đó, cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về kỹ năng lãnh đạo hiện đại, tư duy chính sách, hiểu biết pháp luật và năng lực truyền thông, đáp ứng yêu cầu của thời đại số và hội nhập quốc tế.

Phát huy dân chủ, thực hiện lãnh đạo gắn với kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội.

Một phương thức lãnh đạo hiệu quả phải đặt trên nền tảng dân chủ, công khai, minh bạch. Cần tiếp tục mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy vai trò phản biện của các nhà khoa học, trí thức, báo chí và quần chúng nhân dân.

Cần thiết lập cơ chế đối thoại, phản hồi chính sách công khai giữa các cơ quan Đảng và nhân dân. Các góp ý, kiến nghị chính đáng phải được tiếp thu nghiêm túc, giải trình đầy đủ và có cơ chế phản hồi rõ ràng. Thực hiện nghiêm túc việc công bố thông tin về hoạt động của các cơ quan Đảng, nâng cao chất lượng công tác thông tin truyền thông của Đảng.

Công tác kiểm tra, giám sát cần được coi là nội dung quan trọng, thường xuyên của phương thức lãnh đạo. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện nghị quyết; đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, cán bộ gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, không hình thức, đối phó.

Tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng và hệ thống chính trị.

Để phương thức lãnh đạo của Đảng trở nên bền vững và đúng hướng, cần tiếp tục xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát nội bộ, mở rộng quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc và nhân dân đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.

Đảng cần hoàn thiện cơ chế xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra sai phạm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ. Tăng cường vai trò của Ủy ban Kiểm tra các cấp, đảm bảo tính độc lập tương đối trong kiểm tra, xử lý vi phạm. Chú trọng ngăn ngừa từ xa, phòng hơn chống, thay vì chỉ tập trung vào hậu kiểm.

 Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào hoạt động lãnh đạo của Đảng.

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, cần đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng hiện đại hóa, dựa trên nền tảng dữ liệu và công nghệ số. Cần triển khai đồng bộ hệ thống cơ sở dữ liệu đảng viên, quản lý tổ chức đảng, điều hành công việc của cấp ủy, theo dõi kết quả thực hiện nghị quyết bằng hệ thống số liệu và công cụ hiện đại.

Tăng cường sử dụng họp trực tuyến, phần mềm điều hành thông minh, chia sẻ thông tin giữa các cấp ủy và cơ quan quản lý nhà nước. Xây dựng các kênh tương tác số giữa Đảng với nhân dân, giữa cấp ủy với đảng viên, để nắm bắt kịp thời thông tin từ cơ sở.

Đổi mới nội dung, hình thức, phong cách lãnh đạo theo hướng gần dân, vì dân, hành động thiết thực.

Một trong những yêu cầu quan trọng nhất trong đổi mới phương thức lãnh đạo là phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân. Đảng cần tăng cường đối thoại với dân, lắng nghe dân, giải quyết kịp thời những bức xúc, mâu thuẫn từ cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, cần nâng cao ý thức phục vụ nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân.

Cần từ bỏ lối lãnh đạo hình thức, hành chính hóa; thay vào đó là lối tư duy chiến lược, hành động thiết thực, kịp thời. Phong cách lãnh đạo phải gương mẫu, giản dị, gần gũi, sâu sát thực tiễn.

Tóm lại, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng là nhiệm vụ sống còn, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đây không chỉ là yêu cầu nội tại của sự nghiệp đổi mới, mà còn là điều kiện tiên quyết để Đảng ta giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối trong giai đoạn phát triển mới. Việc triển khai các giải pháp trên đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận xã hội sâu rộng.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin