1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị Lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất. Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá, đó chính là tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Trước lúc “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”1, Người đã để lại cho toàn dân tộc ta bản Di chúc thiêng liêng, kết tinh những giá trị tinh hoa về văn hóa, tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người. Qua bản Di chúc, Người đã dặn dò toàn Đảng, toàn dân tộc những vấn đề cốt yếu trong xây dựng Đảng, về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, định hướng toàn diện cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước. Cụ thể:
“TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”2. “Một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc” - đó là lý tưởng phụng sự suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, và cũng là định hướng chỉ đạo của Người về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người cho rằng, nguyên nhân Đảng “đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” chính là nhờ Đảng ta “đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”. Theo Người, “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”3. Sinh thời, Người cũng từng nhiều lần khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc, “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”4; đề cao vai trò, sức mạnh của nhân dân “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”5; coi trọng và xác định nhân dân là mục tiêu, động lực của cách mạng “Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”6, “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”7. Do đó, “Nhiệm vụ của Chính quyền ta và Đoàn thể ta là phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đày tớ cho dân… việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”8.
Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bản Di chúc, người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết 9thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi. Qua thực tiễn cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút ra một chân lý: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”10. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết thống nhất. Đó không phải là đoàn kết giả tạo, đoàn kết hình thức, mà đoàn kết phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là mỗi đảng viên phải gương mẫu thực hiện nói đi đôi với làm, “đoàn kết không phải ngoài miệng mà phải đoàn kết trong công tác, trong tự phê bình và phê bình giúp nhau tiến bộ”11.
Để đoàn kết trong Đảng, Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”12. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Muốn đoàn kết tốt thì phải phê bình, tự phê bình tốt, nghĩa là xuất phát từ đoàn kết mà phê bình và tự phê bình, phê bình và tự phê bình để đi đến đoàn kết hơn nữa”13. Theo Người, tự phê bình và phê bình là cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ; cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Do đó, khi tiến hành tự phê bình và phê bình, phải “ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”14. Phải tiến hành tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên, nghiêm túc, trên tinh thần tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, “các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”15. “Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”16.
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”17. Để Đảng ta xứng đáng là một đảng cầm quyền, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ cần củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng, không chỉ cần thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, mà còn cần chăm lo công tác cán bộ, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, để “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, để xây dựng Đảng ta là một tổ chức lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Theo Người: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”18. Người nhấn mạnh: “đạo đức cách mạng… không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”19; “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”20. Nền tảng của công tác xây dựng Đảng về đạo đức, bao gồm đạo đức của Đảng và đạo đức của mỗi đảng viên, giữa chúng có quan hệ hữu cơ, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. Đạo đức của Đảng khi được giáo dục, giác ngộ, thấm sâu vào mỗi đảng viên sẽ thúc đẩy chế độ kỷ luật tự giác, không vì vụ lợi cá nhân, sẵn sàng dấn thân cho mục tiêu chung, đặt sự nghiệp cách mạng của Đảng lên trên hết, trước hết, làm cho triệu người như một, tạo nên sức mạnh vô địch. Đó chính là sức mạnh của một chính đảng mang lý tưởng khoa học, dựa trên động cơ đạo đức, tổ chức chặt chẽ, phong cách dân chủ, hiện thân “là đạo đức”, “là văn minh”.
“ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”21. Vai trò của đạo đức cách mạng tiếp tục được Người nhấn mạnh trong Di chúc, khi Người căn dặn về đội ngũ đoàn viên thanh thiên - những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội - thế hệ cách mạng cho đời sau - rường cột của nước nhà. Trong suốt cuộc đời mình, Người luôn quan tâm tới thế hệ trẻ, thấy rõ vai trò quyết định của thanh niên trong tiến trình lịch sử và có niềm tin sâu sắc vào khả năng cách mạng của thanh niên. Người từng khẳng định: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”22, “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”23. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần khẳng định, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Muốn làm tròn trọng trách người chủ tương lai của đất nước, thế hệ trẻ phải được giáo dục, bồi dưỡng để trở thành công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cách mạng chân chính. Muốn vậy, thanh niên cần được trang bị đạo đức cách mạng, chỉ khi được trang bị đạo đức cách mạng chân chính thì thanh niên mới có thể tự phấn đấu hoàn thiện bản thân, hình thành năng lực cá nhân làm tiền đề để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Với nghĩa đó, đạo đức cách mạng là nền tảng vững chắc để thanh niên hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Ngoài những vấn đề cốt yếu trong xây dựng Đảng, trong mấy lời cuối cùng để lại cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu còn căn dặn Đảng ta: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”24. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị áp bức đau khổ”25 và Người đã dành chính cuộc đời mình để cống hiến cho độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam và góp sức vào sự nghiệp giải phóng nhân loại bị áp bức, bất công trên toàn thế giới. Tư tưởng của Người về chăm lo đời sống nhân dân như sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, và đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị, soi đường cho cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Công an nhân dân Việt Nam là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; lực lượng làm nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành những tình cảm đặc biệt và sự lãnh đạo thường xuyên, sâu sát, cụ thể đối với Công an nhân dân.
Trong Bài nói tại buổi lễ thành lập Công an nhân dân vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính”26. Trong Bài nói tại Đại hội thi đua lực lượng Công an nhân dân, Người nhấn mạnh: “Cán bộ và chiến sĩ Công an nhân dân nói chung là tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng và nhân dân, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và của nhân dân”27, “Công an nhân dân của ta sẽ là một lực lượng cách mạng vô địch”28 khi thi đua thực hiện các điều sau:
“- Trước hết là phải khắc sâu lòng căm thù giặc Mỹ, phải nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, luôn luôn cảnh giác, dũng cảm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
- Phải thật sự đoàn kết, đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa công an với nhân dân.
- Phải kịp thời kiện toàn tổ chức và chỉnh đốn lề lối làm việc của các bộ phận công an để làm trọn nhiệm vụ mới.
- Các cán bộ và chiến sĩ Công an nhân dân phải ra sức trau dồi:
Đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân.
Tác phong phải thật khách quan, thiết thực, phải tăng cường công tác điều tra nghiên cứu tổng kết và trao đổi kinh nghiệm giữa các ngành công an.
Đối với những người có thành tích, phải khen thưởng, đối với những người mắc sai lầm thì phải phê bình, kiểm thảo giúp họ sửa chữa. Khi cần thiết thì phải thi hành kỷ luật nghiêm minh, đúng mức.
- Các cấp đảng bộ trong lực lượng Công an nhân dân phải rất coi trọng xây dựng đảng bộ và chi bộ “bốn tốt”, phải coi trọng công tác xây dựng Đoàn Thanh niên.
- Trong các cơ quan, phải thực hành dân chủ, thường xuyên phê bình nghiêm chỉnh và thật thà tự phê bình để giúp nhau tiến bộ”29.
Cho đến lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Di chúc, “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”30, trong đó có lực lượng Công an nhân dân, Người “để sẵn mấy lời”, nhưng đúc kết những bài học soi đường mà đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị.
Năm mươi lăm năm qua, những di huấn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, quyết tâm và ra sức thực hiện. Trong đó, lực lượng Công an nhân dân đã đoàn kết, quyết tâm học tập và làm theo Di chúc của Người, nỗ lực trở thành “lực lượng cách mạng vô địch”31 - tuyệt đối trung thành, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và Nhân dân ta. Cụ thể:
Thứ nhất, Công an nhân dân Việt Nam thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”. Ra đời trong phong trào cách mạng, được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu giáo dục, rèn luyện, tổ chức lãnh đạo, lực lượng Công an nhân dân đã từng bước lớn mạnh và trưởng thành, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Lòng trung thành của lực lượng Công an nhân dân thể hiện ở sự giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cách mạng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; kiên định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng đối với công tác công an; kiên quyết đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nêu cao tinh thần sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã làm tốt vai trò tham mưu, phối hợp và trực tiếp thực hiện các biện pháp trong công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, nhất là bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ đội ngũ cán bộ, ngăn chặn ý đồ xâm nhập, phá hoại nội bộ; ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch; góp phần quan trọng giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; bảo vệ việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
Ra đời trong phong trào cách mạng của Nhân dân, Công an nhân dân luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, được Nhân dân nuôi dưỡng, giúp đỡ về mọi mặt. Lực lượng Công an nhân dân đã quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu “công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân để làm việc”32. Đến nay, Công an nhân dân từ Trung ương đến địa phương đã luôn thực hiện tốt khẩu hiệu hành động: “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Thức cho dân ngủ ngon, gác cho dân vui chơi, lấy niềm vui, hạnh phúc của nhân dân làm lẽ sống của mình”, “Mỗi ngày làm một việc tốt vì nhân dân”…; chăm lo xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” gắn với thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”… Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân có thái độ ứng xử văn hóa trong tiếp xúc và làm việc với Nhân dân; khiêm tốn, niềm nở, lễ phép, kính trọng người già, yêu mến trẻ em, tôn trọng phụ nữ, giúp đỡ người khuyết tật; thực sự cầu thị, lắng nghe ý kiến phê bình, góp ý của Nhân dân để sửa chữa khuyết điểm của mình. Thường xuyên nêu cao tinh thần cách mạng, kiên quyết đấu tranh phê phán, khắc phục thái độ thờ ơ, lạnh nhạt, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà cho Nhân dân. Công tác dân vận trong Công an nhân dân luôn được chú trọng và gắn liền với chức năng nhiệm vụ của công tác công an, làm việc theo phương châm: “trọng dân, gần dân, sát dân; nghe dân nói, nói dân nghe; lúc dân cần, lúc dân khó, có Công an; dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Thứ hai, Công an nhân dân Việt Nam thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Đoàn kết là sức mạnh vô địch, là một truyền thống vô cùng quý báu của Đảng, của dân tộc ta. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, lực lượng Công an nhân dân thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, phát huy dân chủ nội bộ, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân dựa trên các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên tổ chức sinh hoạt chính trị “tự soi”, “tự sửa”, “tự nhận diện”, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, phòng ngừa biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; góp ý phê bình về thực hiện đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử trong khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ; trong quan hệ với đồng chí, đồng đội và trong các mối quan hệ xã hội, sinh hoạt tại nơi cư trú... Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, hoạn nạn; thẳng thắn tự phê bình và phê bình trong nội bộ. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân và các cấp, các ngành, đoàn thể quần chúng để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống phản cách mạng, trấn áp các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, quản lý, giáo dục các đối tượng lầm lỗi tại địa bàn dân cư, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; phòng, chống cháy, nổ; khắc phục hậu quả thiên tai…
Thứ ba, Công an nhân dân Việt Nam làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là chuẩn mực về tư cách đạo đức của mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an. Đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an phải: xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh, cần cù trong lao động sản xuất, học tập, công tác; tiết kiệm trong sử dụng thời gian, kinh phí, ngân sách và tài sản của Nhà nước; không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu cầu lợi ích bộ phận hoặc cá nhân; không tham ô, hối lộ, không chiếm đoạt tài sản của công; ngay thẳng, thật thà, trung thực, biết tự trọng, phân biệt rõ đúng sai, tôn trọng và bảo vệ chân lý, lẽ phải; có tác phong làm việc khách quan, tỉ mỉ, thận trọng, không để lọt kẻ địch, không làm oan người vô tội; thường xuyên tự phê bình và phê bình, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, xứng đáng là công cụ chuyên chính sắc bén của Đảng và Nhà nước, là con, em yêu quý của Nhân dân.
Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Công an nhân dân luôn tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đồng thời, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh có văn hóa, xây dựng mối quan hệ đồng chí, đồng đội, tình yêu gia đình tốt đẹp, trong sáng. Không ngừng học tập, tiếp thu cái mới, cầu tiến bộ là bản chất truyền thống của Công an nhân dân Việt Nam. Truyền thống quý báu đó bắt nguồn từ đức tính cần cù, chịu khó, ham học hỏi, cầu tiến bộ của dân tộc Việt Nam. Qua quá trình công tác, xây dựng, chiến đấu,… dù trong hoàn cảnh thời chiến hay thời bình, lúc thuận lợi hay khó khăn, ác liệt, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Công an luôn chủ động tranh thủ mọi thời gian, mọi điều kiện để học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, văn hóa, pháp luật, nghiệp vụ; kết hợp học tập tại trường, học trong thực tiễn công tác, chiến đấu, học trong sách vở, học Nhân dân; tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm.
Thứ tư, Công an nhân dân Việt Nam làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Xác định thanh niên Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong xây dựng và phát triển lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, trong thời gian qua, Ban Thường vụ Đảng uỷ Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong Công an nhân dân; chỉ đạo rà soát, đề xuất các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định, hướng dẫn về giáo dục đào tạo, bồi dưỡng của lực lượng Công an nhân dân bảo đảm tính đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả. Các trường Công an nhân dân phối hợp với Công an các đơn vị, địa phương tổ chức tuyển sinh, chiêu sinh, nhập học các trình độ, loại hình đào tạo và tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn theo chỉ tiêu được phân bổ. Xây dựng chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo các trình độ giáo dục đại học và khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp trình độ trung cấp trong Công an nhân dân; xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo quy định, yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, gắn lý luận với thực tiễn. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học trong nhà trường. Triển khai cải tiến chất lượng sau kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục. Trong những năm qua, hệ thống các học viện, trường Công an nhân dân đã đào tạo hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ Công an có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ khoa học, góp phần đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Sáu điều Bác Hồ dạy và Di chúc của Người trong thanh niên Công an nhân dân đã đi vào thực chất, có chiều sâu hơn, chuyển mạnh từ “học tập” sang “làm theo” bằng những việc làm rất thiết thực, cụ thể hằng ngày trong học tập, công tác, chiến đấu, phục vụ nhân dân của cán bộ, chiến sĩ. Qua đó, thanh niên Công an nhân dân luôn giữ vững bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; nêu cao tinh thần tận tụy với công việc, ý thức phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc; không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của Nhân dân; từ đó, xuất hiện ngày càng nhiều những tấm gương thanh niên Công an nhân dân tiêu biểu, điển hình trong học tập và làm theo Bác. Đại bộ phận thanh niên Công an nhân dân đã kế thừa và phát huy tốt truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng và của lực lượng Công an nhân dân; trung thành, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, đoàn kết, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc cốt ghi tâm Sáu điều Bác Hồ dạy và Di chúc của Người, quyết tâm học tập, thực hiện thật tốt tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trong suốt quá trình phấn đấu, rèn luyện.
Năm mươi lăm năm qua, quán triệt và thực hiện lời dặn trước lúc đi xa trong bản Di chúc thiêng liêng của Người, các thế hệ Công an nhân dân luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, nỗ lực trở thành “lực lượng cách mạng vô địch” - tuyệt đối trung thành, xứng đáng với niềm tin yêu mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 15, tr. 621.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 621-622.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 264.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 502.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 247.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 432.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 104.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 151.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 590.
14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 272.
15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 273.
16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 301.
17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 292.
19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 292.
20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 601.
21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
22. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 194.
23. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 216.
24. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
25. Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1990, tr. 174.
26. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 153.
27. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 169.
28. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 170.
29. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 169-170.
30. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 624.
31. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 170.
32. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 498.
TRẦN VĂN KHẢI
Học viện An ninh nhân dân