Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là một trong những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã triển khai chiến lược thu hút trí thức toàn cầu và đạt được kết quả tích cực. Trung Quốc với chương trình “Nghìn nhân tài” (Thousand Talents Program) đã thu hút hàng chục nghìn chuyên gia kiều bào và quốc tế về làm việc trong các viện nghiên cứu trọng điểm. Hàn Quốc có chính sách “Brain Korea 21” nhằm tài trợ cho nghiên cứu, đào tạo và thu hút trí thức kiều bào. Ấn Độ cũng nổi bật với các chương trình kết nối cộng đồng người Ấn Độ ở nước ngoài, biến kiều bào thành cầu nối cho công nghệ và vốn đầu tư...
Là một quốc gia chú trọng phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, Việt Nam không đứng ngoài xu thế đó. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh ba đột phá chiến lược, trong đó “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”1 được xác định là trụ cột quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định đột phá “đẩy mạnh đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo động lực then chốt nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế”2; “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài”3.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh mới, việc thu hút chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài trở thành một chiến lược quan trọng, góp phần bổ sung nguồn lực trí tuệ, công nghệ và kinh nghiệm quản trị tiên tiến cho đất nước. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4; “Phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài”5.
Theo Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, tính đến tháng 02/2024, Việt Nam có khoảng 6 triệu người sinh sống ở hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có khoảng 600.000 người (trên 10%) có trình độ trên đại học, với nhiều nhà khoa học thành danh trong nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ như điện tử, chất bán dẫn, vật liệu mới, y sinh học... Nguồn lực này ngày càng phát triển, do cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu sinh sống tại các quốc gia phát triển, có điều kiện tiếp cận với nền khoa học tiên tiến và trong độ tuổi thích hợp với việc nắm bắt các công nghệ, xu thế phát triển mới của thế giới. Bên cạnh đó, lực lượng lao động người Việt Nam ở nước ngoài với kỹ năng, kinh nghiệm và tác phong công nghiệp được rèn luyện ở nước ngoài, sau khi về nước cũng được phát huy, đã và đang trở thành nguồn nhân lực quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước6. Đồng thời, trong tiến trình hội nhập, số lượng chuyên gia, nhà khoa học quốc tế đến Việt Nam sinh sống và làm việc cũng ngày càng tăng; tuy nhiên, mức độ tham gia trực tiếp vào nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ còn hạn chế. Đây là tiềm năng to lớn để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam nếu có cơ chế, chính sách phù hợp để kết nối và phát huy hiệu quả.
Tuy nhiên, trên thực tế, mức độ thu hút và phát huy tiềm năng của trí thức kiều bào và chuyên gia, nhà khoa học quốc tế vẫn còn hạn chế. Một số chính sách thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính phức tạp, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, môi trường nghiên cứu chưa thực sự thuận lợi, từ đó khiến Việt Nam chưa trở thành điểm đến hấp dẫn đối với nhân tài toàn cầu.
1. Thực trạng thu hút chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài
Trong thời gian qua, chủ trương trọng dụng nhân tài, thu hút chuyên gia, trí thức kiều bào và chuyên gia, nhà khoa học quốc tế đã được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa bằng nhiều chính sách và chương trình hành động. Trên cơ sở đó, việc thu hút chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài đã có những kết quả ban đầu đáng ghi nhận, thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, bổ sung tri thức và công nghệ tiên tiến cho quá trình phát triển.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa tri thức, các chuyên gia và nhà khoa học quốc tế, cùng với đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài chính là cầu nối đưa những thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất trên thế giới đến với Việt Nam. Đội ngũ này mang đến kinh nghiệm nghiên cứu, phương pháp quản trị hiện đại và tri thức tiên tiến mà đội ngũ trong nước chưa kịp cập nhật hoặc tiếp cận hạn chế.
Thực tế cho thấy, những lĩnh vực công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, khoa học vật liệu hay công nghệ bán dẫn... đều đòi hỏi sự tiếp cận nhanh với chuẩn mực quốc tế. Nhiều chuyên gia người Việt tại Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu tham gia các tập đoàn công nghệ hàng đầu trên thế giới đã và đang chia sẻ kinh nghiệm, kết nối dự án nghiên cứu với Việt Nam. Điển hình như Mạng lưới các Hội trí thức kiều bào hỗ trợ đổi mới sáng tạo và thương mại hóa công nghệ ra mắt vào tháng 12/2021, được điều hành bởi 21 chủ tịch là Việt kiều, với mục tiêu thúc đẩy kết nối trí tuệ của lực lượng chuyên gia, trí thức người Việt tại nước ngoài, tối ưu hóa nguồn lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo trong nước7. Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam thuộc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia được thành lập năm 2024, với mục tiêu kết nối đội ngũ chuyên gia hàng đầu với các “Startup” và doanh nghiệp. Nền tảng này là cầu nối giúp các nhân tài Việt Nam trên khắp thế giới giao lưu, tương tác, tạo ra những ý tưởng mới mẻ và cùng hiện thực hóa những ý tưởng đó thành sản phẩm, dịch vụ có giá trị cao, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước8. Đây là những minh chứng sinh động cho vai trò lan tỏa tri thức từ cộng đồng trí thức toàn cầu vào trong nước.
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ nhân lực mới.
Một trong những giá trị cốt lõi mà các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức kiều bào đem lại là khả năng tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Không ít trường đại học và viện nghiên cứu ở Việt Nam đã mời các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và các giáo sư, tiến sĩ kiều bào đảm nhận vị trí giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu sinh hoặc phối hợp tổ chức các hội thảo khoa học. Một số trường như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Y Hà Nội đã xây dựng các “Chương trình giảng dạy quốc tế”, với sự tham gia trực tiếp của các chuyên gia quốc tế, trí thức kiều bào đến từ Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản... Điều này vừa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, vừa tạo cơ hội cho sinh viên, nghiên cứu sinh trẻ tiếp cận phương pháp học thuật hiện đại, chuẩn quốc tế.
Ngoài ra, đội ngũ chuyên gia quốc tế đến làm việc tại Việt Nam cũng góp phần thúc đẩy môi trường học tập đa văn hóa, nâng cao năng lực ngoại ngữ, kỹ năng làm việc trong môi trường toàn cầu cho thế hệ trẻ. Đây là yếu tố quan trọng để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao về trình độ chuyên môn, hội nhập tốt với thị trường lao động quốc tế.
Thứ ba, tham gia hoạch định chính sách và chiến lược phát triển.
Trí thức kiều bào và chuyên gia, nhà khoa học quốc tế không chỉ góp phần lan tỏa tri thức, nghiên cứu hay đào tạo, mà còn tham gia vào quá trình tư vấn, hoạch định chính sách. Trong nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã mời các chuyên gia là kiều bào tham gia các hội đồng tư vấn về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng và phát triển bền vững. Tiêu biểu là trong quá trình xây dựng Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030, Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030, hay các cam kết quốc tế về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Theo Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, trong thời gian gần đây, số lượng chuyên gia, trí thức kiều bào tham gia hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam duy trì ở mức khoảng từ 300 đến 500 lượt người/năm. Đặc biệt, các chuyên gia, trí thức kiều bào ngày càng tham gia trực tiếp và sâu rộng vào các quá trình hợp tác, đồng hành tích cực với Chính phủ nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và doanh nghiệp; giải quyết những vấn đề “nóng”, phù hợp với xu thế chung của thế giới và nhu cầu của đất nước như khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, các vấn đề về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư9.
Tháng 8/2024, Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ IV và Diễn đàn Trí thức và chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài năm 2024 được tổ chức tại Hà Nội, với sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ và đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương; 400 kiều bào từ hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Với chủ đề “Người Việt Nam ở nước ngoài chung tay hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước”, các chuyên gia, trí thức kiều bào đã trao đổi về những xu thế phát triển trên thế giới và khu vực; hiến kế về các vấn đề phát triển xanh, bền vững của đất nước; mở rộng Mạng lưới Đổi mới sáng tạo... Đặc biệt, tại Hội nghị này, lần đầu tiên một số hội, đoàn người Việt Nam ở nước ngoài đã cùng với các cơ quan trong nước chủ trì, điều hành một số phiên chuyên đề về lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo... Điều này thể hiện vai trò chủ động, tích cực của kiều bào, không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách, mà còn là chủ thể tham gia hoạch định chính sách và chiến lược phát triển10.
Thứ tư, kết nối Việt Nam với mạng lưới tri thức toàn cầu.
Một vai trò quan trọng khác của các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức kiều bào là làm cầu nối để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị tri thức toàn cầu. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tri thức không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà hình thành mạng lưới kết nối xuyên biên giới. Các chuyên gia kiều bào chính là “những đại sứ tri thức” giúp Việt Nam liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học và tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới.
Các hội doanh nhân, hội chuyên gia, trí thức người Việt thường xuyên tổ chức các hoạt động kết nối với trong nước, tạo thành một mạng lưới rộng khắp, liên kết người Việt cả ở trong nước và nước ngoài. Kiều bào ngày càng khẳng định vai trò, vị thế trong xã hội sở tại. Một số người gốc Việt đã tham gia sâu vào hệ thống chính trị sở tại ở các cấp; nhiều doanh nhân người Việt nằm trong danh sách các tỷ phú thế giới; nhiều chuyên gia, trí thức, văn nghệ sĩ kiều bào được vinh danh tại các giải thưởng quốc tế, góp phần làm rạng danh cơ đồ và vị thế Việt Nam. Qua đó, kiều bào đã trở thành một trong những cầu nối quan trọng, đóng góp ngày càng chủ động, tích cực vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa nước sở tại và quê hương, đất nước11.
Thực tế cho thấy, nhiều dự án hợp tác nghiên cứu giữa Việt Nam và các trung tâm khoa học quốc tế được hình thành nhờ sự kết nối của các nhà khoa học kiều bào. Ví dụ, các dự án hợp tác trong lĩnh vực vật liệu Nano, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ đều có sự tham gia tích cực của trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Điều này không chỉ giúp Việt Nam tiếp cận công nghệ mới, mà còn mở rộng cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ năm, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
Ngoài các vai trò trên, trí thức Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế còn là nhân tố quan trọng thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Nhiều doanh nhân kiều bào đã trở về nước, mang theo vốn, công nghệ và mạng lưới quan hệ quốc tế, góp phần xây dựng những doanh nghiệp khởi nghiệp có sức cạnh tranh toàn cầu. Trong hơn 30 năm qua, tổng lượng kiều hối chuyển về trong nước đạt hơn 200 tỷ USD, tương đương với lượng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng kỳ. Tính đến hết năm 2023, kiều bào đã đầu tư 421 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký 1,72 tỷ USD; cùng với đó là hàng nghìn doanh nghiệp có vốn đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài12.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực công nghệ tài chính (fintech), trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử, đã có nhiều startup của người Việt ở Mỹ, Singapore, Nhật Bản trở về đầu tư và phát triển tại Việt Nam. Chính phủ khuyến khích xu hướng này thông qua Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (theo Quyết định số 844/QĐ-TTg, ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó cộng đồng trí thức kiều bào được coi là lực lượng tiên phong.
Có thể thấy, trong thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong việc thu hút chuyên gia quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài, góp phần bổ sung nguồn lực chất lượng cao cho phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thu hút chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Cụ thể:
Thứ nhất, cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu đồng bộ và thiếu tính ổn định. Mặc dù đã có các chương trình khuyến khích, song việc thực thi trong thực tiễn còn chồng chéo, thiếu rõ ràng. Một số chính sách đãi ngộ nhân tài vẫn ở mức chung chung, chưa đủ sức hấp dẫn so với các quốc gia trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc. Điển hình như cơ chế tài chính cho chuyên gia nước ngoài, kiều bào tham gia dự án nghiên cứu tại Việt Nam còn hạn chế, thủ tục phức tạp, dẫn đến khó duy trì lâu dài.
Thứ hai, môi trường nghiên cứu và làm việc, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị thí nghiệm ở một số đơn vị còn lạc hậu, chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, năng lực quản trị dự án yếu kém và ít có những trung tâm nghiên cứu hiện đại, mang tính kết nối toàn cầu. Điều này khiến các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam làm việc khó có thể triển khai tốt các dự án công nghệ cao.
Thứ ba, vấn đề thủ tục hành chính và pháp lý vẫn là rào cản. Thủ tục mời chuyên gia nước ngoài về làm việc, xin giấy phép lao động, thủ tục công nhận văn bằng, chứng chỉ còn phức tạp. Một số trường hợp phải mất nhiều tháng mới hoàn tất quy trình, ảnh hưởng đến tiến độ hợp tác. Môi trường làm việc trong nước còn nhiều bất cập, cơ chế hành chính nặng tính hình thức, thiếu không gian sáng tạo.
Thứ tư, sự kết nối giữa chuyên gia kiều bào với cơ quan, doanh nghiệp trong nước còn rời rạc. Nhiều chuyên gia chỉ tham gia ngắn hạn, dưới dạng hội thảo hoặc tư vấn ngắn gọn, chưa tạo được mạng lưới bền chặt, gắn kết dài hạn với các viện nghiên cứu, doanh nghiệp Việt Nam. Điều này một phần là do thiếu cơ chế “đặt hàng nghiên cứu” cụ thể và nguồn kinh phí ổn định để duy trì hoạt động.
Thứ năm, chế độ đãi ngộ, điều kiện sống, mức lương, phúc lợi đối với chuyên gia nước ngoài, trí thức kiều bào tại Việt Nam thấp hơn nhiều so với quốc tế. Ngoài ra, các yếu tố như môi trường sống, cơ hội phát triển sự nghiệp, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chưa thực sự cạnh tranh.
Thực trạng trên đòi hỏi Việt Nam phải có các giải pháp đồng bộ, đột phá để tạo lập môi trường hấp dẫn, thân thiện, cởi mở hơn, nhằm thu hút và “giữ chân” chuyên gia quốc tế, trí thức kiều bào. Đó không chỉ là vấn đề đãi ngộ vật chất, mà còn liên quan đến cải cách thủ tục, nâng cấp môi trường nghiên cứu, tăng cường kết nối và tạo niềm tin về cơ hội cống hiến lâu dài cho sự nghiệp phát triển quốc gia.
2. Một số giải pháp tăng cường thu hút, phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài
Bước vào giai đoạn phát triển mới, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”13. Để thực hiện mục tiêu đó, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài, trở thành nhân tố quyết định giúp đất nước nắm bắt hiệu quả cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh - những xu thế toàn cầu đang dần định hình lại vị thế cạnh tranh của các quốc gia. Nếu không nhanh chóng tận dụng tri thức, công nghệ và nguồn chất xám từ bên ngoài, Việt Nam sẽ đối diện với nguy cơ tụt hậu xa hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”14. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng cũng nhấn mạnh một trong những đột phá chiến lược: “Xây dựng cơ chế đặc thù để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đột phá các ngành khoa học, công nghệ chiến lược, công nghiệp nền tảng, công nghiệp mới nổi... Xây dựng cơ chế đặc thù về thu nhập, môi trường làm việc, đề bạt, bổ nhiệm để thu hút, sử dụng các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, doanh nhân công nghệ, nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài”15.
Theo đó, để tăng cường thu hút, phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hướng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam, góp phần đắc lực hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững, cần triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng thể chế minh bạch, ổn định và có tính dự báo cao. Điều này không chỉ tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho chuyên gia, nhà khoa học quốc tế và trí thức kiều bào yên tâm hợp tác, công tác, mà còn khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền lợi chính đáng của họ. Việc ban hành một đạo luật riêng về thu hút, sử dụng nhân tài trong giai đoạn mới là bước đi cần thiết để hệ thống hóa các chính sách hiện hành vốn còn rời rạc, thiếu tính ổn định. Cùng với đó, cần quy định rõ ràng cơ chế đãi ngộ, bảo đảm sự công bằng, minh bạch, tránh tình trạng vận dụng tùy tiện, gây tâm lý e ngại cho người được mời.
Thứ hai, xây dựng môi trường nghiên cứu và sáng tạo đạt chuẩn quốc tế, coi đây là điều kiện tiên quyết để đội ngũ chuyên gia phát huy năng lực một cách toàn diện. Các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, phòng thí nghiệm trọng điểm, khu công nghệ cao phải trở thành “bệ đỡ” cho sự cộng tác giữa chuyên gia trong nước và nước ngoài. Điều quan trọng là các cơ sở này cần được đầu tư đồng bộ, có cơ chế vận hành linh hoạt, cho phép chuyên gia nước ngoài và trí thức Việt kiều tham gia trực tiếp, không qua quá nhiều tầng nấc thủ tục. Việc liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp cũng cần được thúc đẩy mạnh mẽ để kết quả nghiên cứu sớm được chuyển hóa thành sản phẩm, dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất.
Thứ ba, hình thành và phát triển mạng lưới trí thức toàn cầu của người Việt. Việt Nam hiện có khoảng 6 triệu kiều bào đang sinh sống và làm việc tại hơn 130 quốc gia, trong đó có nhiều chuyên gia, nhà khoa học, trí thức có uy tín hoạt động trong các lĩnh vực then chốt như công nghệ thông tin, năng lượng, y sinh, tài chính, quản trị. Tuy nhiên, sự gắn kết của họ với các hoạt động phát triển trong nước chưa thường xuyên và bền vững. Do đó, cần mở rộng và nâng tầm Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam, “biến” đây trở thành “cầu nối” để trí thức Việt trên toàn thế giới giao lưu, trao đổi tri thức và công nghệ. Việc tổ chức các diễn đàn thường niên, kết nối trực tuyến liên tục và gắn kết chặt chẽ với các dự án quốc gia trọng điểm sẽ giúp trí thức ở xa cũng có thể tham gia đóng góp thiết thực.
Thứ tư, việc cải cách thủ tục hành chính và nâng cao điều kiện sống cũng là yếu tố then chốt để tạo sự gắn bó lâu dài. Cần áp dụng cơ chế “một cửa điện tử”, số hóa toàn bộ quy trình, công khai thời hạn và trách nhiệm giải quyết. Đồng thời, phải quan tâm, chú trọng đến đời sống của chuyên gia và gia đình họ bằng việc cải thiện môi trường sống, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, nhà ở, an ninh. Khi những nhu cầu căn bản của gia đình được bảo đảm, các chuyên gia mới yên tâm cống hiến lâu dài cho đất nước.
Thứ năm, đa dạng hóa nguồn lực tài chính để thu hút nhân tài. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn chế, cần phát huy cơ chế đối tác công - tư (PPP), khuyến khích doanh nghiệp và quỹ đầu tư cùng tham gia tài trợ cho các dự án hợp tác với chuyên gia quốc tế và trí thức Việt kiều. Đồng thời, Việt Nam cần tận dụng hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ quốc tế như Quỹ JETP, AZEC, tín dụng xanh hay vốn vay ưu đãi từ các định chế tài chính lớn (ADB, WB, JICA...). Khi nguồn lực tài chính được đa dạng hóa, cơ hội để “mời gọi” những chuyên gia hàng đầu thế giới tham gia vào các dự án chiến lược của Việt Nam sẽ rộng mở hơn nhiều.
Thứ sáu, khơi dậy mạnh mẽ niềm tin và khát vọng phát triển đất nước. Các chuyên gia quốc tế và trí thức Việt Nam ở nước ngoài chỉ thực sự gắn bó khi họ thấy được sự minh bạch, quyết tâm và tầm nhìn dài hạn của Chính phủ. Việc tôn vinh những đóng góp cụ thể, tạo điều kiện để trí thức được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, được lắng nghe ý kiến, phản biện khoa học, sẽ giúp xây dựng niềm tin vững chắc. Khi niềm tin được củng cố, chuyên gia quốc tế và trí thức Việt kiều sẽ không chỉ coi Việt Nam là nơi để hợp tác ngắn hạn, mà còn là nơi họ có thể gửi gắm tri thức, tâm huyết và cả tương lai.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 203.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025, tr. 49, 50.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Sđd, tr. 50.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 171-172, 231.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 231.
6. Xem “Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài - Nguồn lực quan trọng đóng góp tích cực vào sự phát triển đất nước”, Báo Chính phủ điện tử, ngày 09/02/2024, https://baochinhphu.vn/cong-dong-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-nguon-luc-quan-trong-dong-gop-tich-cuc-vao-su-phat-trien-dat-nuoc-1022
4020900261099.htm.
7. Xem “Ra mắt Mạng lưới kiều bào hỗ trợ đổi mới sáng tạo”, Báo điện tử VNExpress, ngày 04/12/2021, https://vnexpress.net/ra-mat-mang-luoi-kieu-bao-ho-tro-doi-moi-sang-tao-4398512.html.
8. Xem “Ra mắt Nền tảng Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam”, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 09/9/2024, https://cand.com.vn/doanh-nghiep/ra-mat-nen-tang-mang-luoi-doi-moi-sang-tao-viet-nam-i743178/.
9. Xem “Phát huy nguồn lực trí thức người Việt Nam ở nước ngoài”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 25/7/2023, https://nhandan.vn/phat-huy-nguon-luc-tri-thuc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-post763912.html.
10. Xem “Trí thức và chuyên gia kiều bào hiến kế về các vấn đề phát triển xanh, bền vững của đất nước”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 22/8/2024, https://nhandan.vn/tri-thuc-va-chuyen-gia-kieu-bao-hien-ke-ve-cac-van-de-phat-trien-xanh-ben-vung-cua-dat-nuoc-post826127.html.
11. Xem “Trí thức và chuyên gia kiều bào hiến kế về các vấn đề phát triển xanh, bền vững của đất nước”, Tlđd.
12. Xem “Trí thức và chuyên gia kiều bào hiến kế về các vấn đề phát triển xanh, bền vững của đất nước”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 22/8/2024, https://nhandan.vn/tri-thuc-va-chuyen-gia-kieu-bao-hien-ke-ve-cac-van-de-phat-trien-xanh-ben-vung-cua-dat-nuoc-post826127.html.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 214.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 47.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Sđd, tr. 72.