1. Kinh nghiệm quốc tế
* Kinh nghiệm của Singapore
Singapore nằm trong nhóm các nước đứng hàng đầu thế giới và khu vực về dịch vụ logistics. Chất lượng và năng lực cung ứng dịch vụ Logistics của Singapore ở mức cao và ngày càng tăng so chi phí trả. Theo bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh (LPI), năng lực và chất lượng dịch vụ của cơ quan hải quan, các cơ quan kiểm tra của Singapore được tới 83.33% và 66.67% người được hỏi đánh giá là cao vào hàng bậc nhất thế giới. Bên cạnh đó, hiệu quả của quá trình vận chuyển từ giải phóng và giao hàng đến thực hiện các thủ tục hành chính của Singapore luôn đạt chất lượng với sự đồng ý của 100% người được hỏi, cao hơn từ gấp đôi đến gấp 6 lần so với hiệu quả của Việt Nam.
- Khai thác vị trí địa lý thuận lợi.
Hệ thống cảng biển của Singapore được chính phủ xây dựng với quy mô lớn cùng hệ thống hạ tầng hiện đại có khả năng kết nối với hệ thống cảng biển của hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới. Cảng Singagore được đánh giá là cảng lớn hàng đầu thế giới, mỗi năm có khoảng 140.000 lượt tàu biển cập bến tại cảng Singapore, thông qua trên 500 triệu tấn hàng hóa, trên 30 triệu đơn vị container của các chủ hàng. Các trung tâm phân phối hàng hóa dịch vụ của cảng Singapore đều có sức chứa rất lớn tầm khu vực và thế giới. Cảng Singapore có hệ thống hải quan hiện đại, thủ tục xuất - nhập khẩu tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp. Hệ thống một cửa điện tử quốc gia Tradenet đã giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ có thể tối đa hóa về thời gian làm thủ tục tại cửa khẩu.
- Vai trò của Chính phủ: đưa ra nhiều chính sách ưu đãi.
Chính sách ưu đãi về thuế: Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vận tải, đặc biệt là các công ty kinh doanh vận tải quốc tế được chính phủ Singapore ưu đãi giảm thuế ở một số khoản nhất định. Chẳng hạn thuế thu nhập từ tàu biển được miễn trong 10 năm, cho vay ưu đãi với tàu biển và container. Chính sách miễn giảm thuế của chính phủ Singapore tập trung vào những công ty vận tải, kinh doanh tàu biển và logistics đã khuyến khích nhiều tập đoàn cung ứng dịch vụ logistics quốc tế đặt trụ sở, văn phòng tại Singapore. Các chính sách ưu đãi thuế của Singapore đã thu hút được nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến vào phát triển ngành dịch vụ logistics tại Singapore.
Chính sách hải quan: Singapore là một trong những nền kinh tế được đánh giá là minh bạch nhất thế giới, vì vậy chính sách hải quan của Singapore được chính phủ quy định rất rõ ràng, công khai. Các quy trình hải quan đều được tự động hóa, hệ thống hải quan điện tử với công nghệ hiện đại giúp các nhà chức trách thuận tiện trong quản lý, các doanh nghiệp giảm tối đa chi phí hải quan, chất lượng dịch vụ hải quan được đánh giá cao. Chính phủ Singapore khuyến khích sử dụng công nghệ thông tin vào các khâu của của các hoạt động cung cấp dịch vụ, từ quản lý điều hành, kiểm soát đến các khâu khai thác, vận chuyển, lưu trữ đều được thực hiện bằng máy móc
Chính sách phát triển nguồn nhân lực logistics: Nguồn nhân lực logistics luôn được Chính phủ Singapore coi trọng trong phát triển ngành logistics.
Chương trình Logistics Enhangcement and Application được thực hiện với 4 nhóm giải pháp và 16 dự án cụ thể về phát triển nguồn nhân lực logistics của Singapore. Viện Nghiên cứu Logistics - Châu Á Thái Bình Dương được thành lập tại Singapore với sự trợ giúp của chính phủ nhằm đào tạo cho đất nước những chuyên gia hàng đầu về logistics. Bên cạnh đó, các chương trình hợp tác, giao lưu, hội thảo về phát triển nguồn nhân lực logistics được triển khai đã góp phần nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực logistics của Singapore.
Chính phủ quản lý, quy hoạch và phát triển hệ thống dịch vụ cảng biển hiệu quả. Chính phủ Singapore áp dụng hai mô hình quản lý cảng biển và các dịch vụ cảng biển: Mô hình quản lý theo kiểu chủ cảng và mô hình thương mại hóa về quản lý cảng. Mỗi mô hình quản lý có đặc thù riêng nhưng đều phát huy được vai trò của các chủ thể quản lý cảng biển. Trong mô hình quản lý theo kiểu chủ cảng các doanh nghiệp tư nhân được phép thuê các công trình cảng để làm các dịch vụ như lưu kho, xếp dỡ tại cảng. Các cơ quan quản lý trực tiếp thực hiện bảo trì hệ thống cảng, sở hữu cảng theo quy định của chính phủ. Mô hình quản lý này cho phép các chủ thể dù là người sở hữu cảng hay thuê các công trình cảng đều có thể chủ động trong các hoạt động quản lý, kinh doanh dịch vụ của mình. Với mô hình thương mại hóa về quản lý cảng, công ty thương mại có thể sở hữu và tự khai thác các công trình cảng hoặc giao cho một đơn vị khác thuê để khai thác các công trình cảng.
* Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là một trong các quốc gia có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế biển, với 42% dân số sống ở các vùng hải cảng, bờ biển dài, ngành công nghiệp cảng biển đóng góp chủ yếu trong trao đổi mậu dịch với nước ngoài, và trao đổi trong nước. Vì vậy kinh tế biển nói chung, cảng biển nói riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với Nhật Bản. Nhận thức được điều đó, chính phủ Nhật Bản đã có nhiều giải pháp để thúc đẩy kinh tế biển phát triển, trong đó các giải pháp logistics kinh tế biển được quan tâm đáng kể.
Chính phủ chú trọng tạo dựng môi trường vĩ mô cho các hoạt động logistics, đặc biệt là môi trường kinh doanh lành mạnh, hạn chế sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics. Đối với quản lý dịch vụ logistics, chính phủ Nhật Bản quan tâm nhiều tới hai lĩnh vực cụ thể đó là: Hợp lý hóa các dịch vụ logistics cảng biển và hướng dẫn việc phát triển dịch vụ logistics cảng biển. Để cụ thể hóa các chính sách với việc quản lý dịch vụ logistics, chính phủ Nhật Bản đã lập kế hoạch phát triển hệ thống kho bãi hậu cần, bố trí vị trí hệ thống kho bãi thuận tiện cho việc bốc xếp, vận chuyển, hiện đại hóa hệ thống kho bãi nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, ứng dụng công nghệ hiện đại vào phát triển hệ thống kho bãi nhằm tăng sức cạnh tranh của hệ thống dịch vụ logistics. Bên cạnh đó hệ thống kho bãi được bố trí gần các cảng lớn, các tuyến huyết mạch giao thông của đất nước đã góp phần làm giảm đáng kể chi phí logistics cho các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Khuyến khích phát triển hệ thống hạ tầng dịch vụ logistics, chính phủ Nhật Bản ban hành nhiều chính sách hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp như ưu đãi về thuế vay vốn nhằm cải tạo hạ tầng, kho bãi. Chính phủ cho các doanh nghiệp thuê hoặc bán đất với giá ưu đãi để xây dựng kho bãi hậu cần phục vụ các hoạt động logistics, động thái này đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào cung cấp hệ thống kho bãi và kinh doanh dịch vụ logistics.
Chính phủ Nhật Bản quan tâm phát triển hạ tầng cho dịch vụ logistics, nhất là hạ tầng giao thông vận tải. Là đất nước có hệ thống đảo với số lượng lớn, tuy nhiên sự chia cắt giữa các đảo được khắc phục rất tốt bởi hệ thống cầu vượt biển ở Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông vượt biển nhằm tăng cường kết nối giữa các đảo, đặc biệt là các đảo lớn. Ngoài hệ thống cầu vượt biển, Nhật Bản còn quan tâm phát triển hệ thống đường cao tốc, hệ thống đường hầm xuyên biển nhằm thúc đẩy các hoạt động giao dịch, mua bán hàng hóa dịch vụ giữa các vùng miền của đất nước.
Hiện nay hệ thống cảng, hệ thống kho bãi và hệ thống đường giao thông của Nhật Bản với số lượng lớn và chất lượng ngày càng được nâng cao. Số lượng cảng biển của Nhật Bản hiện nay là 128 cảng lớn phân bố ở khắp đất nước, trong đó có nhiều cảng lớn tầm cỡ hàng đầu thế giới với diện tích cảng hàng nghìn ha, hệ thống cầu cảng, bến cảng quy mô rất lớn.
Hệ thống cơ sở hạ tầng cho sự phát triển logistics gồm các cơ sở hạ tầng giao thông và cơ sở hạ tầng thông tin. Nhật Bản có 128 cảng biển lớn và trung bình cùng hàng nghìn cảng nhỏ, trong đó có 23 cảng quốc tế cỡ lớn và 105 cảng hạng trung. Các cảng được phân bố khắp Nhật Bản: vịnh Tokyo, vịnh Osaka, vịnh Ise là 3 vịnh chính của Nhật được trang bị thiết bị hiện đại, những cần cẩu lớn. Riêng cảng Tokyo có chiều dài cảng nước là 5.292ha, diện tích cảng 1.033ha, đê chắn sóng dài 8.581m, cầu cảng dài 22.744m gồm 140 bến tàu.
Sự ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động logistics được triển khai mạnh mẽ, nhất là đối với dịch vụ phân phối tại nhà. Dịch vụ phân phối tại nhà xuất hiện tại Nhật Bản từ rất sớm và trở thành dịch vụ mang tính phổ biến tại quốc gia này. Hiện nay phần lớn các hoạt động trong dịch vụ phân phối tại nhà ở Nhật Bản đã được tối ưu hóa nhờ công nghệ thông tin. Một trong những lợi ích rất lớn của việc ứng dụng công nghệ mà doanh nghiệp Nhật Bản nhận thấy là việc giảm đáng kể việc hàng hóa tồn kho. Thông qua việc kết nối internet, các doanh nghiệp có thể nhận thông tin mua hàng hóa từ bất kỳ khách hàng nào và thông tin sẽ được tự động chuyển đến từng bộ phận của nhà sản xuất một cách kịp thời, sau đó hàng hóa sẽ được giao đến tận tay khách hàng một cách kịp thời và hiệu quả nhất theo yêu cầu của khách hàng. Qua đó, hãng sản xuất và nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ có thể quản lý chuỗi cung ứng của mình một cách tối ưu, mang lại hiệu quả cao nhất có thể.
Ở Nhật Bản các chương trình phát triển ngành logistics được chính phủ Nhật Bản quan tâm từ rất sớm hướng đến các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường. Ngay từ năm 1960, chính phủ Nhật bản đã cho xây dựng các bãi kho vận hậu cần tại các thành phố lớn, gần các đầu mối giao thông nhằm phát triển dịch
vụ hậu cần của đất nước. Sau đó các trung tâm kho vận hậu cần lấy Tokyo làm trung tâm tiếp tục được xây dựng ở cả 4 phía đông, tây, nam, bắc. Đây là những quyết định nhằm phát triển logistics một cách có hệ thống và dài hạn, thúc đẩy các dịch vụ của Tokyo với các cùng kinh tế khác của Nhật Bản. Việc xã hội hóa trong xây dựng các dự án logistics của Nhật Bản được triển khai khá tốt. Các tổ chức tài chính trung tâm, các doanh nghiệp và các ngân hàng địa phương cùng góp vốn đề thực hiện các dự án phát triển logistics, điều này góp phần thúc đẩy sự liên kết giữa các bên trong các hoạt động từ sản xuất đến lưu thông hàng hóa dịch vụ một cách có hiệu quả.
Nguồn nhân lực logistics chất lượng cao được chính phủ Nhật Bản quan tâm phát triển. Thông qua nhiều chương trình, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành logistics, Nhật Bản đã phát triển được đội ngũ người lao động trong ngành dịch vụ logistics với chất
lượng càng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Các chương trình được chính phủ Nhật Bản hướng đến nhằm xây dựng nguồn nhân lực logistics chất lượng cao là xây dựng các trung tâm đào tạo nhân lực logistics, thành lập các cơ quan nghiên cứu về logistics, cấp các học bổng trong đào tạo nhân lực logistics. Các chương trình đào tạo nhân lực logistics được xây dựng theo hướng chú trọng về chuyên môn nghiệp vụ, các kỹ năng về tin học, ngoại ngữ nâng cao.
2. Bài học cho tỉnh Quảng Ninh
Để thực hiện mục tiêu đưa Quảng Ninh trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp vào năm 2025, trở thành trung tâm logistics của khu vực, gắn logistics với phát triển kinh tế biển, một trong các giải pháp quan trọng cần thực hiện là đẩy mạnh phát triển hệ thống logistics trong kinh tế biển, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và chất lượng của dịch vụ logistics góp phần thúc đẩy kinh tế biển phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Thứ nhất, bài học về phát huy lợi thế về vị trí địa lý. Quảng Ninh là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển logistics, gắn logistics với phát triển kinh tế biển. Từ kinh nghiệm của Singapore về phát huy lợi thế vị trí địa lý, Quảng Ninh có thể rút ra bài học này một cách sâu sắc để thực hiện phát triển dịch vụ, kết nối giao thương trong nước và quốc tế. Là tỉnh có cửa khẩu quốc tế Móng Cái tiếp giáp Trung Quốc, có vùng biển rộng lớn, gần các trung tâm kinh tế trong nước và khu vực, vì vậy nguồn hàng hóa vận chuyển là rất lớn, Quảng Ninh có thể đẩy các dịch vụ thương mại trong nước và quốc tế.
Thứ hai, bài học về công tác quy hoạch. Từ tham khảo mô hình của Hải Phòng, công tác quy hoạch phát triển hệ thống logistics cần được đặt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong đó cần xác định rõ vai trò quan trọng của logistics trong phát triển kinh tế biển, từ tỷ trọng của các ngành dịch vụ logistics đến logistics là ngành mới được quan tâm phát triển trong những năm gần đây. Mặt khác, việc quy hoạch hệ thống trung tâm logistics trong phát triển kinh tế biển cần đặt gắn với phát triển các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng. Cần có sự kiến nghị điều chỉnh và quy hoạch hợp lý các khu kinh tế, khu thương mại tự do, xây dựng các trung tâm logistics nhằm tạo sự kết nối liên hoàn giữa hệ thống đường bộ, cảng biển, đường sắt, sân bay giữa Quảng Ninh và các địa phương trong cả nước và với quốc tế.
Thứ ba, bài học về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp logistics. Quảng Ninh cần xem xét đánh giá, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp logistics cho phù hợp với thực tế. Chính sách hỗ trợ về tài chính, phát triển thị trường, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực, cắt giảm thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp logistics giảm chi phí dịch vụ, nâng cao sức cạnh tranh.
Thứ tư, bài học về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực logistics, trong đó có nguồn logistics biển nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Nguồn nhân lực là một trong các yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng các hoạt động logistics trong nền kinh tế. Tuy nhiên một trong nhữnlogistics Quảng Ninh là vấn đề nguồn nhân lực. Hiện nay lực lượng lao động ngành logistics Quảng Ninh còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Trình độ nguồn nhân lực logistics của Quảng Ninh chưa cao, tính chuyên nghiệp còn hạn chế, kinh nghiệm không nhiều, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, tác phong lao động và kỷ luật lao động chưa cao. Chính vì vậy khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực logistics còn thấp. Để đáp ứng nhu cầu về nhân lực cho ngành logistics, tỉnh Quảng Ninh cần có những biện pháp mang tính vĩ mô, dài hạn, có tính đột phá nhằm phát triển nguồn nhân lực logistics. Cần học tập mô hình kết hợp trong đào tạo nhân lực logistics của các địa phương nói trên, nhất là việc kết hợp với các trường Đại học trong và ngoài nước về đào tạo nhân lực logistics.
Thứ năm, bài học về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics. Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là các địa phương đầu tư rất mạnh mẽ cho phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông vận tải và hạ tầng công nghệ thông tin. Quảng Ninh nên tập trung nguồn lực để phát triển mạnh mẽ hạ tầng logistics, đồng thời có chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Cần sự tham gia của tỉnh để xây dựng các trung tâm đào tạo chất lượng cao về logistics. Quảng Ninh còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực logistics, do đó nên đầu tư xây dựng các trung tâm logistics ở các địa điểm phù hợp để làm đầu mối liên kết các hoạt động trong chuỗi logistics của toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng các trung tâm logistics tại các vùng kinh tế trọng điểm, các trung tâm kinh tế, thương mại, cửa khẩu quốc tế.
TS. TRẦN QUYẾT THẮNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh