Hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay

CT&PT - Hoạt động xuất bản là một bộ phận của lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, có vai trò quan trọng trong việc định hướng tư tưởng, dư luận xã hội, bồi dưỡng tri thức và lan tỏa giá trị văn hóa của dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, hoạt động xuất bản ở Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ từ sự thay đổi của cơ chế thị trường, yêu cầu quản trị hiện đại để đáp ứng được sự phát triển của công nghệ số. Bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận của mô hình tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản; đánh giá thực trạng tổ chức và vận hành của các nhà xuất bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản theo hướng hiện đại, sáng tạo và phát triển bền vững.

1. Cơ sở lý thuyết và thực tiễn

1.1. Mô hình tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản

Mô hình tổ chức của nhà xuất bản được hiểu là hình thức cấu trúc bộ máy, phản ánh cách thức phân bổ quyền lực, chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận, nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu xuất bản. Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản là hệ thống các phương pháp, công cụ, nguyên tắc và quy trình điều hành hoạt động của nhà xuất bản, bảo đảm sự thống nhất giữa mục tiêu chính trị - tư tưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Ở Việt Nam, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý nhà xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và cơ quan chủ quản. Điều này thể hiện rõ tính chất “kép” của hoạt động xuất bản - vừa mang tính hành chính, chính trị, vừa vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Bên cạnh đó, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý nhà nước về xuất bản được vận hành theo hướng quản lý bằng pháp luật, điều tiết bằng chính sách, hỗ trợ bằng công cụ kinh tế, bảo đảm sự thống nhất biện chứng giữa tính định hướng và tính thị trường, giữa mục tiêu tư tưởng và hiệu quả kinh tế. Điều này được cụ thể hóa trong hệ thống các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp lý như Luật Xuất bản, các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện Luật Xuất bản và các văn bản hướng dẫn khác của các cơ quan có liên quan.

Việc quản lý hoạt động xuất bản không chỉ là quản lý quy trình nghiệp vụ, mà còn là quản lý con người, tài chính và hiệu quả hoạt động trong tổng thể chuỗi giá trị xuất bản (biên tập - in - phát hành). Cơ chế này vừa bảo đảm tuân thủ pháp luật và định hướng chính trị, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của nhà xuất bản trong bối cảnh cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mô hình tổ chức và cơ chế quản lý nhà xuất bản ở Việt Nam

Mô hình tổ chức bộ máy nhà xuất bản chính là hình thức tồn tại của bộ máy quản trị, được phân cấp, bố trí theo từng cấp, từng khâu khác nhau nhằm bảo đảm thực hiện tốt các chức năng quản trị và thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Mô hình hoạt động của nhà xuất bản chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, trong đó có ba nhóm nhân tố chính:

(1) Những nhân tố thuộc đặc điểm, tính chất riêng của hoạt động xuất bản. Do đặc điểm, tính chất của hoạt động xuất bản vừa thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã hội, vừa phải bảo đảm nhiệm vụ kinh doanh; hoạt động xuất bản là quá trình lao động trí óc với quy trình sản xuất đặc thù, nên sản phẩm xuất bản không phải là hàng hóa đơn thuần, mà là loại hàng hóa đặc thù, là công cụ truyền tải tri thức, định hướng tư tưởng, văn hóa, thẩm mỹ, bồi đắp đời sống tinh thần của xã hội. Do đó, khi xác định mô hình tổ chức các nhà xuất bản cần tính đến đặc điểm, tính chất này.

(2) Những nhân tố thuộc về thể chế. Đây là nhóm nhân tố giữ vai trò nền tảng, chi phối cách thức tổ chức và hoạt động của các nhà xuất bản. Ở Việt Nam, hệ thống chính sách, pháp luật và các quy tắc xã hội cơ bản tác động đến mô hình hoạt động xuất bản là các chủ trương của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước tạo thành khung pháp lý cho hoạt động xuất bản.

(3) Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Các nhân tố về kinh tế - xã hội tác động trực tiếp đến mô hình hoạt động xuất bản bao gồm các điều kiện về trình độ phát triển kinh tế, thu nhập và mức sống của người dân, cơ cấu xã hội và trình độ dân trí, đời sống văn hóa tinh thần, đặc trưng về thị trường xuất bản phẩm, sự ảnh hưởng của hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học và công nghệ… Bên cạnh đó, hoạt động xuất bản ở còn chịu sự chi phối của các quy tắc xã hội và những chuẩn mực văn hóa của Việt Nam, như phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. 

Điều đặc biệt trong cơ chế tổ chức, quản lý các nhà xuất bản ở Việt Nam là được đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và sự điều hành trực tiếp của cơ quan chủ quản. Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở Việt Nam kết hợp giữa nguyên tắc tập trung, thống nhất với quyền tự chủ của đơn vị, bảo đảm cân bằng giữa mục tiêu chính trị - tư tưởng và hiệu quả kinh tế. Mặc dù, các nhà xuất bản là pháp nhân độc lập, được quyền chủ động trong việc lựa chọn đề tài, kế hoạch xuất bản, tổ chức bộ máy và hoạt động kinh doanh, song mọi hoạt động đều phải tuân thủ định hướng chính trị, pháp luật và quy định của Nhà nước.

Hiện nay, cơ chế quản lý cũng chịu tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, đòi hỏi việc điều hành phải linh hoạt, minh bạch và phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường. 

2. Thực trạng mô hình tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở Việt Nam

Từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, các nhà xuất bản đã không ngừng vận động, đổi mới để thích ứng với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trước những năm 1985, hoạt động xuất bản diễn ra trong cơ chế bao cấp; các nhà xuất bản chủ yếu đảm nhiệm công tác tổ chức bản thảo, còn kinh phí, in ấn và phát hành đều do Nhà nước bảo đảm. Trong giai đoạn 1975 - 1985, hệ thống các nhà xuất bản ở nước ta có sự biến động và thay đổi lớn. Một số nhà xuất bản giải thể, sáp nhập, hợp nhất do có sự thay đổi của các tổ chức, cơ quan chủ quản; đồng thời ra đời nhiều nhà xuất bản mới. Giai đoạn này, có hai loại hình nhà xuất bản, đó là các nhà xuất bản chuyên ngành ở Trung ương và các nhà xuất bản tổng hợp ở các địa phương.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, khi Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Cùng với tiến trình đổi mới, cơ chế tự chủ được mở rộng, từng bước hình thành các loại hình hoạt động đa dạng hơn. Giai đoạn 1986 - 1991 là những năm tháng gian nan nhất của nhiều nhà xuất bản khi phải chuyển mạnh từ cơ chế bao cấp toàn bộ quy trình hoạt động xuất bản (vốn, thiết bị, vật tư in, kế hoạch xuất bản, phát hành) sang cơ chế hạch toán kinh doanh, xóa bỏ bao cấp, phải tự lo về kinh tế và thực hiện những quy định về lãi suất, thuế như với một doanh nghiệp kinh doanh đơn thuần. 

Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 31/3/1992 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản đã định hướng cơ bản để ngành xuất bản thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và chủ trương xây dựng Luật Xuất bản. Nhất là từ khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25/8/2004 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản cùng nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn khác của Đảng và Nhà nước, hoạt động xuất bản đã được định hướng, quản lý và tổ chức ngày càng chặt chẽ hơn. Tiếp tục quá trình đổi mới tư duy và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất bản, Luật Xuất bản sửa đổi, bổ sung năm 2004 đã quy định nhiều nội dung mới, trong đó cho phép nhà xuất bản liên kết với cá nhân, tổ chức để tổ chức bản thảo. Luật Xuất bản năm 2012 quy định cụ thể những hình thức liên kết, trong đó có biên tập bản thảo ở mức độ nhất định. 

2.1. Thực trạng mô hình tổ chức nhà xuất bản ở Việt Nam

Tính đến tháng 12/2024, nước ta có 57 nhà xuất bản, thuộc 53 cơ quan chủ quản, trong đó có 48 nhà xuất bản thuộc Trung ương và 9 nhà xuất bản thuộc địa phương; với tổng doanh thu toàn ngành đạt 4.528,249 tỷ đồng, trong đó có 5 nhà xuất bản có doanh thu đạt trên 100 tỷ đồng, 2 nhà xuất bản có doanh thu trong khoảng 50 - 100 tỷ đồng, 16 nhà xuất bản có doanh thu trong khoảng 10 - dưới 50 tỷ đồng1. Đến nay, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII2, các cơ quan chủ quản đã triển khai nhiều giải pháp sắp xếp các nhà xuất bản, bước đầu ổn định, tạo điều kiện hoàn thành nhiệm vụ kép, vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, vừa phát triển ngành xuất bản sớm trở thành ngành công nghiệp. 

Về loại hình hoạt động, theo Luật Xuất bản hiện hành, các nhà xuất bản được tổ chức và hoạt động theo hai loại hình: đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu3. Trong đó, mô hình đơn vị sự nghiệp công lập vẫn chiếm đa số, được phân theo các mức độ tự chủ tài chính khác nhau. Hoạt động của các nhà xuất bản, ngoài việc thực hiện theo Luật Xuất bản, còn phải thực hiện theo Luật Viên chức, Luật Ngân sách Nhà nước; các Nghị định, Thông tư liên quan quy định về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập hoặc các quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và các văn bản khác có liên quan.

Ngoài ra, tổ chức quản lý hoạt động của các nhà xuất bản còn có sự phân chia, phân cấp theo phạm vi hoạt động như khối nhà xuất bản Trung ương, khối địa phương; theo cơ quan chủ quản; theo chức năng, nhiệm vụ như khối các nhà xuất bản chuyên ngành.

Theo cơ cấu tổ chức nội bộ (mô hình quản trị), các nhà xuất bản ở Việt Nam đang vận hành theo bốn kiểu mô hình tổ chức chủ yếu, phản ánh sự đa dạng về quy mô, phương thức hoạt động và mức độ thích ứng. Thứ nhất là mô hình tổ chức trực tuyến (tập trung dọc). Đây là mô hình truyền thống, trong đó quyền lãnh đạo tập trung ở cấp trên và truyền đạt theo tuyến dọc xuống các phòng, ban chuyên môn. Mô hình này phù hợp với các nhà xuất bản quy mô nhỏ, số lượng đầu sách ít, giúp bảo đảm tính thống nhất, song hạn chế về tính linh hoạt và khả năng chuyên môn hóa. Thứ hai là mô hình tổ chức theo chức năng, được chia thành các phòng, ban chuyên môn như: biên tập, kế hoạch - đề tài, kỹ thuật - chế bản, phát hành, tài chính - kế toán, hành chính - nhân sự... Mô hình này phổ biến nhất hiện nay vì bảo đảm tính chuyên môn hóa cao, nâng cao hiệu quả phối hợp trong sản xuất và phát hành xuất bản phẩm. Thứ ba là mô hình tổ chức hỗn hợp, kết hợp giữa cơ cấu chức năng và cơ cấu dòng sản phẩm, hình thành các nhóm biên tập, ban sách chuyên đề hoặc nhóm xuất bản điện tử. Mô hình này phù hợp với nhà xuất bản có quy mô vừa và lớn, nhiều đầu sách, đa dạng về lĩnh vực, giúp phát huy tính sáng tạo, chủ động và tăng hiệu quả quản trị. Thứ tư là mô hình tổ chức hiện đại, theo hướng chuyển đổi số. Đây là xu hướng mới, các nhà xuất bản bổ sung các bộ phận chuyên trách như: xuất bản điện tử, quản lý bản quyền số, truyền thông - marketing đa nền tảng, dữ liệu và nghiên cứu thị trường. Mô hình này cho phép tích hợp công nghệ, tự động hóa và phân tích dữ liệu trong toàn bộ quy trình xuất bản, tạo nền tảng cho phát triển bền vững trong thời kỳ công nghiệp 4.0.

Một số nhà xuất bản tiên phong như Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Nhà xuất bản Kim Đồng, Nhà xuất bản Giáo dục… đã thực hiện mô hình kết hợp giữa trực tuyến và chức năng, vừa bảo đảm chỉ đạo tập trung theo trục dọc, vừa phát huy tính linh hoạt qua các nhóm dự án liên phòng ban. Mặc dù vậy, mô hình này mới được áp dụng ở quy mô hạn chế, chủ yếu ở các đơn vị có năng lực quản trị tốt. Còn phần lớn các nhà xuất bản nhỏ, đặc biệt là ở địa phương, vẫn hoạt động theo cơ chế hành chính, phụ thuộc chủ yếu vào cơ quan chủ quản, chưa thực hiện đầy đủ quyền tự chủ tài chính và nhân sự. Điều này làm hạn chế năng lực sáng tạo, khả năng cạnh tranh và chậm thích ứng với xu hướng thị trường.

2.2. Thực trạng cơ chế quản lý nhà nước đối với các nhà xuất bản 

Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản ở Việt Nam được hình thành trên nền tảng của hệ thống chính trị - xã hội đặc thù, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và sự điều hành trực tiếp của cơ quan chủ quản. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, Đảng đều ban hành nhiều văn bản quan trọng, kịp thời để định hướng phát triển hoạt động xuất bản. Một trong những phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản là lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng trong các cơ quan xuất bản, từ cấp Trung ương, ngành/địa phương và cơ sở. Thông qua các tổ chức đảng và đảng viên, Đảng lãnh đạo toàn diện hoạt động xuất bản. Ở cấp Trung ương, sự lãnh đạo mang tính vĩ mô, bao quát toàn bộ hệ thống xuất bản cả nước. Ở cấp ngành và địa phương (tỉnh, thành phố), sự lãnh đạo mang tính trực tiếp và cụ thể hơn. Ở cấp cơ sở, tức là cấp ủy đảng trong từng nhà xuất bản, sự lãnh đạo tập trung vào việc bảo đảm tính chính trị - tư tưởng trong mọi hoạt động của đơn vị.

Về quản lý nhà nước, Chính phủ thống nhất quản lý hoạt động xuất bản trong phạm vi cả nước, giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (thông qua Cục Xuất bản, In và Phát hành) làm đầu mối thực hiện. Cục có chức năng hướng dẫn, kiểm tra, cấp phép, quản lý lưu chiểu, thẩm định nội dung, đào tạo - bồi dưỡng nhân lực, nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong xuất bản. Ở cấp địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản tại địa phương, giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về xuất bản, in, phát hành.

Bên cạnh đó, mỗi nhà xuất bản đều có cơ quan chủ quản là bộ, ngành hoặc địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp về tổ chức, nhân sự, tài chính, định hướng kế hoạch xuất bản và bảo đảm điều kiện hoạt động. Sự quản lý này vừa mang tính hành chính, vừa mang tính chính trị, nhằm bảo đảm nhà xuất bản thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích và nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, còn có sự phối hợp của các bộ, ngành khác như Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Công an… trong các lĩnh vực quản lý thị trường, tài chính, an ninh và xử lý vi phạm... Đồng thời, Hội Xuất bản Việt Nam cũng có vai trò quan trọng trong kết nối, hỗ trợ, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhà xuất bản. 

Cơ chế quản lý của các nhà xuất bản ở Việt Nam có một số đặc điểm chính là: (1) Tất cả các doanh nghiệp xuất bản ở Việt Nam đều là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, dù tổ chức và hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp công lập hay công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn nhà nước; (2) Cơ chế quản lý xuất bản mang tính pháp lý đặc thù, được điều chỉnh trực tiếp bởi hệ thống pháp luật hiện hành, dưới sự chỉ đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam; (3) Hoạt động của nhà xuất bản chịu sự tác động đồng thời của nhiều chủ thể khác nhau, gồm: cơ quan quản lý nhà nước, sự lãnh đạo của cấp ủy đảng và sự quản lý trực tiếp của cơ quan chủ quản; (4) Cơ chế quản lý hoạt động xuất bản kết hợp chặt chẽ giữa nguyên tắc tập trung thống nhất với việc phát huy quyền tự chủ của đơn vị; (5) Cơ chế quản lý nhà xuất bản không thể tách rời cơ chế quản lý các cơ sở in và phát hành bởi quy trình xuất bản truyền thống gồm cả ba khâu: biên tập - in ấn - phát hành.

Ngoài ra, cơ chế quản lý hoạt động xuất bản còn là sự quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh của nhà xuất bản ở cấp độ vi mô, diễn ra trực tiếp trong nội bộ đơn vị. Ở cấp cơ sở, hoạt động quản lý được triển khai theo từng khâu chuyên môn, từ lựa chọn đề tài, biên tập, chế bản, in ấn, phát hành đến quản lý tài chính, nhân sự và truyền thông, trong đó mỗi bộ phận chức năng đều có cơ chế điều hành riêng, phù hợp với đặc thù nghiệp vụ. Cách thức này giúp các nhà xuất bản chủ động hơn trong việc xác định kế hoạch đề tài, tổ chức sản xuất, kiểm soát chất lượng và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời vẫn giữ vững định hướng chính trị, tuân thủ pháp luật và bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội. Như vậy, cơ chế quản lý hoạt động xuất bản không chỉ là quản lý ở cấp vĩ mô, mà còn là việc điều hành quy trình nghiệp vụ, quản lý con người, tài chính và giá trị sáng tạo.

2.3. Đánh giá chung

Nhìn một cách tổng thể, ngành xuất bản Việt Nam hiện nay đang bước vào giai đoạn chuyển tiếp quan trọng, từ mô hình quản lý hành chính mang tính bao cấp sang mô hình quản trị hiện đại, kiến tạo và phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản được điều chỉnh theo hướng ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả hoạt động và chất lượng xuất bản phẩm. Nhiều nhà xuất bản đã chủ động đổi mới phương thức quản trị, điều hành, mở rộng liên kết với các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước, ứng dụng công nghệ số vào sản xuất và phát hành, đồng thời chú trọng xây dựng thương hiệu và phát triển nguồn nhân lực, trong đó có một số nhà xuất bản có doanh thu hằng năm cao nhất cả nước như: Nhà xuất bản Kim Ðồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Nhà xuất bản Trẻ, Nhà xuất bản Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam... Những chuyển biến đó cho thấy ngành xuất bản Việt Nam đang dần hình thành một môi trường hoạt động năng động, sáng tạo và hướng tới phát triển bền vững trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động, mô hình và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản vẫn còn bộc lộ không ít bất cập. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng, song hiệu quả hoạt động giữa các loại hình nhà xuất bản vẫn còn chênh lệch. Mô hình hoạt động của các nhà xuất bản chưa thống nhất, dẫn đến các chế độ, chính sách của Nhà nước áp dụng cho các nhà xuất bản phát sinh sự “cạnh tranh chưa bình đẳng” giữa các đơn vị xuất bản. Các nhà xuất bản hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên tự hạch toán, tự chủ về tài chính phải "cạnh tranh" với các nhà xuất bản theo mô hình sự nghiệp công lập tự chủ được bảo đảm chi thường xuyên hay bảo đảm đầu tư hạ tầng, hỗ trợ chi phí. Một số mô hình tổ chức còn cứng nhắc, chưa thích ứng linh hoạt với cơ chế thị trường và yêu cầu chuyển đổi số hiện nay. Nhất là trong giai đoạn chuyển đổi số và hội nhập, các nhà xuất bản phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức liên quan đến mô hình tổ chức và phương thức hoạt động, để vừa thực hiện đúng quy định của pháp luật, song vẫn phải đáp ứng được xu hướng phát triển của thị trường xuất bản hiện đại, bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế xuất bản. 

Cơ chế quản lý hiện hành vẫn tồn tại sự chồng chéo giữa vai trò của cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước. Trong nhiều trường hợp, cơ quan chủ quản can thiệp quá sâu vào hoạt động nội dung, tổ chức nhân sự và định hướng đề tài của nhà xuất bản, trong khi cơ quan quản lý nhà nước lại phải chịu trách nhiệm về mặt pháp lý, kiểm định chất lượng và kiểm soát quy trình xuất bản. Hoặc ở một số bộ, ngành vẫn còn tình trạng cơ quan chủ quản buông lỏng quản lý, chưa có sự quan tâm đúng mức đến hoạt động của nhà xuất bản. Sự phân định chưa rõ ràng giữa lãnh đạo chính trị - quản lý hành chính - quản trị doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả điều hành chưa cao, cơ chế giám sát còn lỏng lẻo, chưa tạo được môi trường thuận lợi để khuyến khích đổi mới, sáng tạo trong hoạt động xuất bản.

Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp và liên kết giữa các khâu trong quy trình biên tập - in - phát hành vẫn còn nhiều hạn chế. Các nhà xuất bản chưa có được mối liên kết chặt chẽ, bình đẳng với các doanh nghiệp in, phát hành, truyền thông và đối tác công nghệ. Cách thức quản lý hiện nay vẫn nặng về kiểm soát hành chính, thiếu các chính sách khuyến khích tự chủ, hợp tác và chia sẻ lợi ích. Đặc biệt, khung pháp lý dành cho hoạt động xuất bản điện tử và nền tảng số vẫn chưa được hoàn thiện, dẫn đến khó khăn trong việc quản lý bản quyền, bảo vệ sở hữu trí tuệ, cũng như trong phát triển các mô hình kinh doanh mới phù hợp với xu thế chuyển đổi số của ngành. Điều này đòi hỏi một chiến lược hoàn thiện đồng bộ cả về thể chế, tổ chức, nhân lực và công nghệ, bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành xuất bản trong thời kỳ mới.

3. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động xuất bản

3.1. Nhóm giải pháp về mô hình tổ chức

Trước hết, cần thống nhất mô hình tổ chức nhà xuất bản theo hướng hiện đại và linh hoạt, bảo đảm các nhà xuất bản đều bình đẳng về trách nhiệm và quyền lợi. Khuyến khích phát triển mô hình kết hợp chức năng - dự án, trong đó các bộ phận chuyên môn hoạt động theo quy trình sản phẩm và được điều phối thông qua hệ thống quản trị số. 

Thứ hai, thúc đẩy các nhà xuất bản tự chủ tài chính và quản trị chuyên nghiệp. Nhà nước cần chuyển từ cơ chế cấp ngân sách sang cơ chế đặt hàng, hỗ trợ nhiệm vụ chính trị thông qua quỹ công, đồng thời khuyến khích các nhà xuất bản khai thác dịch vụ, liên kết xã hội hóa để tạo nguồn thu. Việc áp dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp hiện đại (minh bạch tài chính, phân quyền điều hành, kiểm soát nội bộ) là điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của các nhà xuất bản.

Thứ ba, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực quản lý xuất bản, đồng thời các nhà xuất bản cần chủ động đổi mới, sáng tạo để nâng cao năng lực cạnh tranh. Cán bộ lãnh đạo nhà xuất bản cần có tư duy chiến lược, năng lực sáng tạo và phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, được trang bị kiến thức về quản trị nhân lực, quản lý văn hóa, kinh tế và công nghệ. Thực tế cho thấy, có nhiều nhà xuất bản hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn nhà nước song hoạt động rất hiệu quả, ngược lại, có những nhà xuất bản là đơn vị sự nghiệp công lập nhưng hoạt động trì trệ, doanh thu thấp. Điều đó cho thấy năng lực của đội ngũ lãnh đạo có vai trò quyết định đối với sự phát triển của mỗi nhà xuất bản.

3.2. Nhóm giải pháp về cơ chế quản lý nhà nước

Thứ nhất, các cơ quan quản lý cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về xuất bản trong bối cảnh chuyển đổi số. Bổ sung quy định về xuất bản điện tử, bản quyền kỹ thuật số, dữ liệu số hóa, xuất bản mở và lưu chiểu trực tuyến phù hợp với thực tiễn hoạt động cơ quan, đơn vị. Hình thành cơ chế cấp phép điện tử, truy xuất bản quyền và quản lý xuất bản phẩm qua mã định danh số quốc gia.

Hai là, phân định rõ vai trò giữa cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan chủ quản, tăng cường phân cấp, trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các nhà xuất bản. Cơ quan chủ quản tập trung định hướng chính trị và giám sát chiến lược, không can thiệp hành chính vào hoạt động chuyên môn. Cơ quan quản lý nhà nước đảm nhiệm chức năng pháp lý, thanh tra, xử lý vi phạm và hỗ trợ chính sách.

Ba là, đổi mới phương thức quản lý từ hành chính sang kiến tạo. Các cơ quan quản lý nhà nước cần chuyển mạnh từ "quản lý bằng mệnh lệnh" sang "điều tiết bằng cơ chế và khuyến khích bằng chính sách". Quản lý nhà nước không chỉ là kiểm tra, xử phạt, mà còn hỗ trợ, tư vấn, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để nhà xuất bản phát triển sáng tạo và bền vững.

3.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ

Thứ nhất, ứng dụng công nghệ số trong quản lý và hoạt động xuất bản. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất bản, hệ thống đăng ký bản quyền điện tử, phần mềm quản trị quy trình biên tập - phát hành tích hợp... Đẩy mạnh phát triển xuất bản số, xuất bản mở, audiobook và các nền tảng phân phối trực tuyến.

Thứ hai, hoàn thiện chính sách tài chính và đãi ngộ như ưu đãi thuế cho các hoạt động xuất bản phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội; hỗ trợ hạ tầng công nghệ cho các nhà xuất bản; khuyến khích xã hội hóa mạnh mẽ để đầu tư đổi mới công nghệ in ấn, lưu chiểu, số hóa tài nguyên xuất bản; đẩy mạnh vai trò hỗ trợ, giám sát và định hướng phát triển bền vững của ngành.

Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập để học hỏi kinh nghiệm quản trị của các quốc gia có nền xuất bản phát triển. Đồng thời, đẩy mạnh quảng bá sách Việt Nam ra nước ngoài, xây dựng thương hiệu xuất bản quốc gia mang tầm khu vực.

Hoạt động xuất bản Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới - giai đoạn quản trị kiến tạo, tự chủ và hội nhập. Việc hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế quản lý là yêu cầu tất yếu để ngành xuất bản vừa giữ vững định hướng chính trị, phát triển văn hóa, vừa phát huy năng lực kinh tế trong cơ chế thị trường. Quá trình này phải dựa trên nguyên tắc đồng bộ giữa thể chế, tổ chức và con người. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo khung pháp lý và môi trường chính sách; cơ quan chủ quản định hướng chính trị, giám sát chiến lược; về phía nhà xuất bản cần phát huy khả năng tự chủ, ứng dụng công nghệ và nâng cao năng lực quản trị. Khi ba yếu tố này được kết nối hài hòa, hiệu quả, ngành xuất bản mới có thể phát triển bền vững, trở thành công cụ tư tưởng sắc bén của Đảng, đồng thời là ngành công nghiệp văn hóa hiện đại, góp phần xây dựng nền kinh tế tri thức và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.


1. Cục Xuất bản, In và Phát hành: Báo cáo tổng kết hoạt động xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm năm 2024 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2025.

2. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Xuất bản số 28/VBHN-VPQH, ngày 10/12/2018, Điều 6.
 

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin