Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Long An

CT&PT - Cán bộ, công chức, viên chức là mắt xích quan trọng trong tổng thể các thành tố vận hành hệ thống chính trị ở Việt Nam. Thời gian qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Long An luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp trong tỉnh thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chuẩn hóa đội ngũ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao đối với nhiệm vụ, công việc trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

1. Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức 
Thời gian qua, Long An có nhiều giải pháp để đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh. Điển hình là Đề án công tác cán bộ, Kế hoạch số 76-KH/TU, ngày 11/10/2018 thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ. Kết quả đạt được đã tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác cán bộ. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được nâng lên rõ nét cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm, năng lực công tác, trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, trình độ chuyên môn, lý luận chính trị trong cấp ủy nhiệm kỳ 2020 - 2025 tăng so với nhiệm kỳ trước và cao hơn mức bình quân cả nước. Chỉ số thành phần trong cải cách hành chính về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh đạt 80,39% ở mức khá. Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị cơ bản ổn định, hợp lý, từng bước phù hợp vị trí việc làm và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị của tỉnh có trình độ sau đại học được nâng lên về số lượng và chất lượng. 
Bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh còn một số tồn tại, hạn chế như sau: 
- Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa đồng đều, chưa thực sự ngang tầm với nhiệm vụ phát triển của tỉnh. Vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ ở một số nơi, thiếu cán bộ quản lý giỏi, chuyên gia, nhất là lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, kiến trúc, quy hoạch. 
- Một số cán bộ còn thiếu tính chủ động, sáng tạo, quyết đoán, bao quát trong giải quyết công việc; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn  nhiều hạn chế. Tinh thần trách nhiệm một số cán bộ, công chức chưa cao, chưa gương mẫu chấp hành các quy định, quy chế trong thực thi công vụ, cải cách hành chính. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ chưa đạt yêu cầu.
- Việc tuyển dụng sinh viên giỏi, tốt nghiệp các trường đại học công lập, chất lượng, có uy tín còn ít; tuyển dụng công chức cấp xã chất lượng còn chưa cao, công chức được tuyển dụng chủ yếu tốt nghiệp đại học hệ vừa làm, vừa học. 
- Chất lượng quy hoạch cán bộ còn dàn trải chưa coi trọng quy hoạch dài hạn đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ chuyên môn, khoa học; chưa gắn ngành nghề đào tạo với vị trí quy hoạch. 
- Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ở một vài đơn vị, địa phương chưa bám vào yêu cầu, nhiệm vụ, phát triển của đơn vị, địa phương; một số trường hợp cử đi đào tạo sau đại học chưa phù hợp với chuyên ngành đã được đào tạo, vị trí việc làm hoặc chức danh quy hoạch, chưa đồng đều giữa các chuyên ngành; công tác quản lý, xét duyệt cử đi đào tạo sau đại học có lúc thiếu chặt chẽ; vẫn còn cán bộ, công chức, viên chức đào tạo sau đại học chưa phát huy trình độ, kiến thức đã học. 
Nguyên nhân tồn tại, hạn chế
- Sự thay đổi của khoa học và công nghệ diễn ra nhanh, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một số cơ chế, chính sách đối với cán bộ chậm đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. 
- Một số cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Đề án công tác cán bộ còn thiếu quyết liệt, chưa toàn diện. Việc nghiên cứu, quán triệt các quy định, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh về công tác cán bộ ở một số nơi chưa đầy đủ, sâu kỹ nên trong lãnh đạo, thực hiện còn những hạn chế, thiếu tính chủ động, chặt chẽ. 
- Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn thiếu các cơ sở đào tạo chất lượng cao, đào tạo chưa gắn trực tiếp với nhu cầu thị trường; dự báo thông tin, định hướng nhu cầu tuyển dụng lao động chưa được quan tâm. Chất lượng hoạt động các đơn vị sự nghiệp phục vụ công nghiệp, nông nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu. 
- Các cơ chế, chính sách thu hút, tạo môi trường làm việc ở các cơ quan, đơn vị, địa phương của tỉnh chưa đủ sức cạnh tranh và thu hút lao động chất lượng cao. Đào tạo sau đại học cho cán bộ, công chức, viên chức chưa sát với chuyên ngành còn thiếu và chưa gắn với trách nhiệm, yêu cầu phát triển của từng ngành, địa phương. Tinh thần tự học tập nâng cao năng lực, trình độ trong cán bộ, công chức, viên chức chưa cao. 
- Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Đề án ở ngành, địa phương đôi lúc chưa thường xuyên. Sự phối hợp trong tổ chức và quản lý ở một số cơ quan tham mưu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thiếu sâu sát, đồng bộ. 
2. Nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian tới
Thứ nhất,
tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thúc đẩy hoạt động đổi mới phương pháp, lối làm việc, năng động, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là nêu cao trách nhiệm, vai trò gương mẫu của người đứng đầu theo hướng phục vụ doanh nghiệp, nhân dân. Nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở về ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cần thiết xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 
Thứ hai, tập trung triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp và nông nghiệp tỉnh, trong đó có nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. 
Thứ ba, tiếp tục cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Kế hoạch số 76-KH/TU, ngày 11/10/2018 của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể: Phấn đấu đến năm 2025: (1) Phấn đấu có từ 3-5 địa phương bố trí bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND huyện; (2) xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định; (3): Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi từ 15% trở lên; từ 15 - 25% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; (4) 100% cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện phải đạt trình độ chuyên môn đại học trở lên, trung cấp chính trị trở lên, riêng trưởng các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội phải có trình độ cao cấp; (5) Từ 15 - 20% cán bộ chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi; (6) 90% cán bộ chuyên trách cấp xã có trình độ cao đẳng, đại học chuyên môn nghiệp vụ và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác.  
Thứ tư, tập trung đào tạo lý luận chính trị, quản lý nhà nước, bồi dưỡng nghiệp vụ lãnh đạo quản lý, cập nhật kiến thức, bồi dưỡng nghiệp vụ cấp ủy nhằm đảm bảo theo tiêu chuẩn chức danh gắn với vị trí việc làm. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ gắn với vị trí việc làm (tập trung Tiếng Anh, Nhật, Trung, Hàn và Khmer) cho cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút tạo nguồn cán bộ, công chức, viên chức nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp và nông nghiệp của tỉnh. Đổi mới đào tạo sau đại học theo hướng phải phù hợp với vị trí việc làm, theo quy hoạch, nhu cầu bố trí sử dụng sau khi tốt nghiệp gắn chỉ tiêu đào tạo với trách nhiệm của từng ngành, địa phương; ưu tiên cho các ngành, lĩnh vực phục vụ công nghiệp, nông nghiệp; khuyến khích cá nhân tự học tập nâng cao trình độ sau đại học phù hợp với vị trí việc làm.
Thứ năm, đổi mới và nâng cao chất lượng các khâu trong công tác cán bộ, trong đó tập trung thực hiện một số nội dung như: Quản lý chặt chẽ, đổi mới công tác tuyển dụng công chức, viên chức theo hướng nâng cao chất lượng đầu vào, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan, công bằng, đúng pháp luật và tính cạnh tranh trong tuyển dụng; Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cán bộ theo hướng gắn với tiêu chuẩn chức danh, kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; Quản lý và đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng: đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức theo quy hoạch, chức danh; đổi mới đào tạo sau đại học theo hướng đào tạo chuyên gia, theo chuyên ngành cụ thể (không theo nhóm ngành) trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh; rà soát, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung và thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với cán bộ phù hợp điều kiện của tỉnh và quy định của Trung ương. Thực hiện đồng bộ các chế độ, chính sách trong công tác cán bộ để tạo môi trường làm việc tích cực nhằm động viên, khích lệ, tạo động lực để cán bộ an tâm công tác và phát huy tiềm năng, trí tuệ, cống hiến, trưởng thành.   
Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, thực hiện công tác cán bộ; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm, sai phạm trong công tác cán bộ; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về chống chạy chức, chạy quyền. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát, phát hiện, đấu tranh các biểu hiện sai phạm về công tác cán bộ. Chú trọng sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân rộng, biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có mô hình, cách làm hay, hiệu quả trong công tác cán bộ. Tiếp tục xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ thật sự trong sạch, trung thành, trung thực, trong sáng, gương mẫu, tinh thông, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. 

TS. TRẦN MINH TÂM
Học viện Chính trị khu vực II

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin