Nhân tố chính trị, tinh thần - Cội nguồn sức mạnh làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975

CT&PT - Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài hơn 20 năm của quân và dân ta, mãi mãi là mốc son chói lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Có nhiều nguyên nhân đưa đến chiến thắng vĩ đại đó, trong đó nhân tố chính trị, tinh thần đóng vai trò quyết định, là chất keo kết dính các nhân tố cùng hội tụ nhằm chuyển hóa lực lượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp hơn hẳn đối phương để giành chiến thắng.

Đánh giá nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta chỉ rõ: “Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả tổng hợp của thời cơ cách mạng, sự phát triển có tính chất bước ngoặt về thế và lực của cách mạng Việt Nam, sự hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để làm nên một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc”1. Kết quả tổng hợp đó “là sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, cả tinh thần, tư tưởng và vật chất, kỹ thuật, có tài năng, trí tuệ của lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và tính năng động, sáng tạo vĩ đại của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang”2. Vì vậy, có thể khẳng định: Nhân tố chính trị, tinh thần chính là cội nguồn sức mạnh làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

1. Nhân tố chính trị, tinh thần trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975

Nhân tố chính trị, tinh thần trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự hội tụ các yếu tố chính trị của thời đại với yếu tố tinh thần của dân tộc; của đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Bác Hồ; của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; của chiến tranh chính nghĩa và tinh thần nhân văn của dân tộc Việt Nam. Nhân tố đó được biểu hiện ở việc toàn quân và toàn dân ta đã nhận thức đúng đắn về tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh tự vệ, bảo vệ Tổ quốc, ở trạng thái quyết tâm cao độ, ý chí sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách và niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng. Nhân tố chính trị, tinh thần trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 giữ vai trò nền tảng, chủ đạo, định hướng cho các lực lượng cách mạng tham gia chiến dịch thống nhất về ý chí và hành động; tạo nên động lực mạnh mẽ để phát huy các nhân tố khác, là “vũ khí tinh thần” làm suy giảm tinh thần, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù; tạo nên sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta - một dân tộc còn nghèo nàn, lạc hậu, vừa phải trải qua những năm tháng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, đã chiến đấu dũng cảm và chiến thắng oanh liệt đế quốc Mỹ - tên đế quốc sừng sỏ có ưu thế vượt trội về cả tiềm lực kinh tế và quân sự lúc bấy giờ. 

Một là, sức mạnh từ sự tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính trị đúng đắn của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, để kháng chiến thắng lợi nhất thiết phải có một trong bốn điều kiện, đó là: “Có con đường chính trị đúng”3. Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bằng Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là nhờ Đảng ta sớm có đường lối chính trị đúng đắn, nhất là xác định đúng con đường của cách mạng miền Nam: “Không có con đường nào khác ngoài con đường đánh đổ chế độ độc tài phát xít của Mỹ - Diệm, hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”4. “Đường lối đó đã động viên và tổ chức được hàng triệu người xông lên diệt giặc cứu nước, tạo thành thế trận vô địch của chiến tranh cách mạng ở miền Nam Việt Nam đúng như điều mà Binh thư yếu lược đã nói “một người làm một trận, nghìn muôn người sống làm một trận, nghìn muôn người động làm một người””5.

Toàn thể dân tộc ta, trực tiếp là nhân dân miền Nam thực hiện sáng tạo, tài tình đường lối cách mạng của Đảng trong cuộc chiến đấu trường kỳ, kiên cường và dẻo dai, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân: “Cách mạng miền Nam sở dĩ có sức mạnh bách chiến bách thắng là vì nhân dân miền Nam mà lực lượng đông đảo là hơn 10 triệu nông dân qua mấy chục năm đấu tranh kiên cường dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đã từng được hưởng những quyền lợi dân tộc và dân chủ thật sự do cách mạng đưa lại, là vì cách mạng miền Nam đã kết hợp một cách sáng tạo hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ theo đúng chiến lược đoàn kết toàn dân, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”6.

Hai là, sức mạnh chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt ở miền Bắc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sức mạnh chính trị của quân và dân ta được bồi đắp, phát triển và phát huy cao độ trên cơ sở vững chắc của chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Mặc dù các yếu tố đó ở miền Bắc mới bước đầu được xây dựng, nhưng đã thể hiện rõ sức sống và tính ưu việt, bảo đảm cho miền Bắc phát huy vai trò quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp kháng chiến của dân tộc, làm thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; trở thành động lực chính trị, tinh thần to lớn để huy động tối đa sức mạnh của chế độ mới cho cuộc kháng chiến; chi viện kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nước bạn Lào và Campuchia; đập tan cuồng vọng của kẻ thù với ưu thế vượt trội về trang bị, vũ khí, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương đi đến toàn thắng. 

Sức mạnh của chế độ xã hội mới là động lực tinh thần to lớn để toàn dân, toàn quân ta đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Về vấn đề này, Đảng ta chỉ rõ: “Đây là thắng lợi của sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thắng lợi của một chế độ mới đang vươn mình lên xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, quét sạch mọi bất công xã hội, từng bước xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, phát huy ý thức làm chủ tập thể của các từng lớp nhân dân, vượt qua những thử thách nghiêm trọng của chiến tranh ác liệt, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, tạo điều kiện để miền Bắc làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn và vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước”7

Ba là, sức mạnh tinh thần từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đó là sức mạnh của nhân dân, sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, được hình thành và phát triển trên cơ sở chính trị - xã hội vững chắc, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát huy tối đa, với tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”8 trong suốt hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta... Nhân dân ta đã đoàn kết, càng đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ hơn nữa! Chúng ta càng đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ hơn nữa với anh em, bè bạn ta trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, đang ra sức ủng hộ chúng ta! Dù giặc Mỹ hung ác đến đâu, sức mạnh đoàn kết vĩ đại của chúng ta nhất định sẽ đánh thắng chúng”9. Lời “tiên tri” của Người đã trở thành hiện thực sinh động khi sức mạnh tinh thần và lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế được phát huy cao độ để làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lúc đầu, địch mạnh hơn ta gấp trăm gấp ngàn lần về vật chất. Nhưng về tinh thần và chính trị thì ta mạnh hơn địch gấp trăm gấp ngàn lần”10. Người động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân miền Nam: “Đồng bào miền Nam thì đang nắm vững chiến lược tất thắng là: đoàn kết, tin tưởng, bền bỉ, quyết thắng. Đồng bào miền Nam đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong gần 20 năm, lại được nhân dân yêu chuộng chính nghĩa khắp thế giới ủng hộ. Vì vậy cuối cùng đồng bào miền Nam nhất định thắng lợi”11. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Người, quân và dân miền Nam đã nỗ lực vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, huy động sức người, sức của, vùng lên đấu tranh giải phóng, đánh cho Mỹ cút và tạo tiền đề để đánh cho ngụy nhào, đúng như Đảng ta khẳng định: “Với tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, với nghị lực cách mạng phi thường, nhân dân ta đã đánh thắng rất oanh liệt cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và tàn bạo nhất của tên đế quốc đầu sỏ trên thế giới ngày nay, làm thất bại một bước quan trọng chiến lược quân sự “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ12.

Bốn là, sức mạnh của tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của toàn thể dân tộc Việt Nam. 

V.I. Lênin nhấn mạnh: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy”13. Vận dụng quan điểm của V.I. Lênin, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta chủ trương: “Phát huy ưu thế chính trị, tinh thần chiến đấu anh dũng, chiến thắng quân địch có ưu thế trang bị kỹ thuật14; với tinh thần ““xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” rầm rộ xuống đường đấu tranh trước lưỡi lê và máy chém của kẻ thù, hăng hái tham gia các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”, góp phần to lớn làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối”15

Như vậy, cùng với các nhân tố khác, nhân tố chính trị, tinh thần chính là cội nguồn sức mạnh làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của nhân dân ta, trên cơ sở kế thừa sâu sắc truyền thống của dân tộc; là thắng lợi của khối liên minh công nông mà Đảng đã dày công xây đắp qua các thời kỳ cách mạng, Mặt trận Dân tộc thống nhất được xây dựng và không ngừng củng cố trên cơ sở liên minh công nông và dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của các lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng đã luôn nêu cao tinh thần “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”16, của toàn thể chiến sĩ và đồng bào ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã thấm nhuần sâu sắc chân lý vĩ đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”17.

2. Phát huy nhân tố chính trị, tinh thần trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực dự báo sẽ tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp theo hướng đa cực, đa trung tâm và phân tuyến mạnh; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, nhất là cạnh tranh “tập hợp lực lượng”, đối đầu ngày càng rõ nét hơn; “chạy đua vũ trang” và “chính trị cường quyền” có biểu hiện gia tăng; khu vực châu Á Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục phát triển, song đây cũng là khu vực cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn; nội khối ASEAN đứng trước nhiều thách thức ở cả bên trong lẫn bên ngoài. 

Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực; cơ đồ, vị thế, uy tín quốc tế ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhiều “điểm nghẽn”, trở ngại chưa được tháo gỡ, giải quyết; đặc biệt, “bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”18, có những biểu hiện mới, phức tạp hơn. Để phát huy nhân tố chính trị, tinh thần trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, cần quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, là nguyên tắc chủ đạo bảo đảm quân đội có chất lượng tổng hợp, có sức mạnh chiến đấu, nhất là sức mạnh chính trị, tinh thần, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Tập trung xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, đủ năng lực lãnh đạo toàn diện, có sức chiến đấu cao, đoàn kết chặt chẽ để lãnh đạo cơ quan, đơn vị tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, dân tộc và quân đội, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng. 

Hai là, tăng cường giáo dục mục tiêu, lý tưởng cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, chủ nghĩa yêu nước, đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội. 

Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị nhằm góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội; định hướng tư tưởng, khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục lý tưởng, tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; kết hợp giáo dục với biện pháp quản lý hành chính, rèn luyện kỷ luật, kết hợp “xây” với “chống”, “nói” đi đôi với “làm”, bảo đảm cho công tác tư tưởng luôn đi trước, mở đường, giải quyết kịp thời những vướng mắc về tư tưởng của bộ đội trước sự tác động của các yếu tố tiêu cực và trước những sự kiện, vấn đề nhạy cảm, góp phần tạo sự ổn định, sự đồng thuận về tư tưởng, chính trị, tinh thần trong cơ quan, đơn vị, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận, ý thức cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tiếp tục thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị khóa XIII về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới; Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Ba là, tiếp tục xây dựng hệ thống cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị vững mạnh. 

Quán triệt thực hiện Quy định số 49-QĐ/TW, ngày 22/12/2021 của Bộ Chính trị quy định về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Quy định số 51-QĐ/TW, ngày 29/12/2021 của Ban Bí thư về tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội. Đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng, xây dựng môi trường văn hóa quân sự phong phú, trong sạch, lành mạnh, ngăn chặn các tệ nạn và các tác động tiêu cực từ bên ngoài vào đơn vị; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bộ đội, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa - tinh thần; khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống, góp phần giữ vững phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Đồng thời, tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giữ vững và tăng cường “trận địa tư tưởng” của Đảng trong quân đội, không để xảy ra tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ quân đội. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 20/7/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Nghị quyết số 513-NQ/ĐUQSTW, ngày 17/11/2005 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy  Trung ương) về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới gắn với thực hiện tốt Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW, ngày 29/01/2025 của Quân ủy Trung ương về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong quân đội, nhằm xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp vững mạnh toàn diện, bảo đảm đội ngũ cán bộ chính trị và cơ quan chính trị thực sự là hạt nhân giúp công tác đảng, công tác chính trị luôn là “linh hồn và mạch sống” trong quân đội; từ đó tạo ra “tiền đề vật chất” để phát huy tối đa nhân tố chính trị, tinh thần trong sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới. 

Bốn là, xây dựng tinh thần, ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới. 

Đặc biệt chú trọng tổ chức triển khai thực hiện các mục tiêu chủ yếu và đột phá xây dựng quân đội được đề cập trong dự thảo Báo cáo chính trị của Quân ủy Trung ương trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII, xác định phương châm “chỉ bàn tiến, không bàn lùi”, bảo đảm chủ động, kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, với tinh thần “tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào ra việc đấy, làm việc nào dứt việc đó” trong quán triệt triển khai thực hiện. Tập trung làm tốt công tác lãnh đạo tư tưởng và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng trong quân đội, vì: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”. Có như vậy mới tạo được sự thống nhất về tư tưởng và hành động cho cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong quân đội trong tình hình mới. 

Đây là vấn đề quan trọng nhằm vận động, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào cách mạng, thi đua yêu nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về công tác dân vận. Trong đó, trọng tâm là các nhiệm vụ, giải pháp được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Kết luận số 43-KL/TW, ngày 07/01/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Quy chế số 718-QC/QUTW, ngày 05/11/2021 của Quân ủy Trung ương về công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam. Không ngừng gia tăng nền tảng sức mạnh của quân đội là tinh thần “quân với dân một ý chí”, “gắn bó máu thịt với nhân dân” - nhân tố quyết định sự phát triển lớn mạnh của quân đội, bảo đảm quân đội luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Nhân tố chính trị, tinh thần là cội nguồn sức mạnh làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đó là bài học có giá trị lịch sử và thời đại sâu sắc, là nhân tố quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam nói chung và lịch sử ra đời, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Trong thời kỳ mới, phát huy nhân tố chính trị, tinh thần trong xây dựng quân đội vừa là phương thức, nguyên tắc, vừa là giải pháp quan trọng để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, t. 69, tr. 907.

2. Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Đại thắng mùa Xuân 1975 và mấy vấn đề chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975”, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1990, tr. 9.

3, 9, 19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 5, tr. 625; t. 15, tr. 366; t. 8, tr. 554-555.

4, 5, 6, 8, 14, 15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 21, tr. 507; t. 36, tr. 213; t. 35, tr. 364; t. 69, tr. 955; t. 29, tr. 426; t. 53; tr. 661. 

7, 12, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 34, tr. 138-139, 110-111, 138.

10, 11, 16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 77, 78, 619.

13. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr. 147.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 108.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin