Bài học kinh nghiệm về công tác quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ

CT&PT - Cùng với việc xây dựng, phát triển tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội, thì việc quản lý đội ngũ đảng viên luôn song hành và là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, có tính chiến lược đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình.

1. Đông Nam Bộ Việt Nam bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh là: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh. Đây là vùng có nền kinh tế phát triển nhất Việt Nam, đóng góp hơn 2/3 thu ngân sách hàng năm của cả nước, có tỷ lệ đô thị hóa 50%. Thời gian qua, các doanh nghiệp trong vùng này đã đóng góp trên 50% thu nội địa vùng. 
Xác định rõ mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của công tác quản lý đảng viên, các cấp ủy, tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (DNNKVNN) ở các tỉnh vùng Đông Nam Bộ luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời xây dựng kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương về quản lý đảng viên và đạt được kết quả tích cực, toàn diện, cụ thể: 
Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện thường xuyên, kịp thời, đúng định hướng, có trọng tâm, trọng điểm, góp phần định hướng cho đảng viên cảnh giác trước những thông tin xấu độc, sai lệch, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác những khuynh hướng, biểu hiện lệch lạc về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. 
Hai là, công tác quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên theo hướng ngày càng chặt chẽ, cụ thể, sát thực hơn. Việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và Nhân dân nơi cư trú được thực hiện nghiêm túc; đa số đảng viên đã phát huy được tính tiền phong, gương mẫu, tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. 
Ba là, thông qua phân tích, đánh giá phân loại chất lượng đảng viên hàng năm giúp các cấp ủy, tổ chức đảng nắm chắc và toàn diện cả về phẩm chất, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực của từng đảng viên. Nhiều tổ chức đảng có những giải pháp linh hoạt trong quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên phù hợp, không máy móc, hình thức kém hiệu quả.
Bốn là, việc rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng được thực hiện thận trọng, không để xảy ra khiếu nại, tố cáo. 
Năm là, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được quan tâm triển khai, qua đó đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi vi phạm ở một số tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, xử lý nghiêm minh, đúng quy định của Đảng góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", nâng cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy và lãnh đạo doanh nghiệp. 
Sáu là, công tác quản lý đảng viên thông qua hồ sơ, phiếu đảng viên và các dữ liệu liên quan được bổ sung, cập nhật đầy đủ, chính xác, kịp thời, không để xảy ra sai sót; việc lưu trữ và bảo mật được thực hiện theo đúng quy định. Các mặt công tác cụ thể của đảng viên được xác định rõ ràng, nên kịp thời nắm được kết quả công việc của đảng viên. Từng đảng viên cũng thấy rõ mình phải tự quản lý lấy mình, tự khép mình vào tổ chức giữ gìn kỷ luật của Đảng. 
Như vậy, nhìn chung công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh vùng Đông Nam Bộ có những chuyển biến tích cực, quan trọng. Những tiến bộ trong công tác quản lý đảng viên đã làm cho đội ngũ đảng viên ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Phần lớn đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên trong doanh nghiệp. Trình độ, năng lực của đội ngũ đảng viên được nâng lên một bước. 
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý đảng viên trong các DNNKVNN ở vùng Đông Nam bộ vẫn còn không ít hạn chế, khó khăn, thách thức:
Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thông tin tuyên truyền, quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản, quy định của cấp ủy cấp trên về công tác quản lý đảng viên; công tác quản lý đảng viên có thời điểm còn lúng túng, chưa đầy đủ, chưa có giải pháp cụ thể; việc rà soát, nắm tình hình đảng viên ở một số tổ chức đảng chưa thường xuyên; việc đối khớp, cập nhật lý lịch đảng, phiếu đảng viên, thực hiện quy trình chuyển sinh hoạt đảng cho đảng viên ở một số cấp ủy còn chậm; một số tổ chức đảng chưa chú trọng đến chất lượng công tác phát triển đảng viên; việc đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên hằng năm có nơi còn mang tính hình thức, tiến hành qua loa, đại khái; việc kiểm tra, giám sát công tác quản lý đảng viên và việc thực thi chức trách, nhiệm vụ, thực hiện các quy định, nguyên tắc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của đảng viên ở một số tổ chức đảng chưa được quan tâm; việc giữ mối liên hệ, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú còn hạn chế; việc phối hợp với cấp ủy, tổ chức đảng nơi cư trú về quản lý đảng viên có nơi chưa chặt chẽ; tự phê bình và phê bình yếu; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện; tình trạng đảng viên chuyển công ty, chuyển nơi cư trú và không muốn sinh hoạt ở tổ chức đảng ở công ty khá phổ biến đã gây nhiều khó khăn trong quản lý đảng viên; việc quản lý, giáo dục, phân công nhiệm vụ đảng viên không chuyển sinh hoạt đảng từ địa phương nơi cư trú đến doanh nghiệp và đánh giá chất lượng đảng viên thuộc diện này đang gặp nhiều vướng mắc.
Những tồn tại, hạn chế, khuyết điểm trong công tác quản lý đảng viên ở các DNNKVNN ở các tỉnh vùng Đông Nam Bộ do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là: Việc phát triển các tổ chức đảng nói chung và quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN là vấn đề mới và khó, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nhiều cấp ủy còn lúng túng; các quy định, quy chế, hướng dẫn hoạt động của tổ chức đảng trong các DNNKVNN thiếu đồng bộ, chậm sửa đổi, bổ sung phù hợp với đặc thù của các đơn vị kinh tế ngoài khu vực Nhà nước.
Một số tổ chức đảng, trước hết là cấp ủy chưa có giải pháp cụ thể để quản lý chặt chẽ đảng viên, còn trông chờ vào sự tự giác của đảng viên. Cấp ủy cấp trên ít kiểm tra, hướng dẫn về công tác quản lý đảng viên, trong khi đó cấp ủy, tổ chức đảng trực tiếp quản lý đảng viên còn nể nang, chưa mạnh dạn đấu tranh phê phán những biểu hiện trái với quy định của Đảng. 
Một số tổ chức đảng xây dựng được quy chế làm việc, nhưng thực hiện không nghiêm; đội ngũ cấp ủy viên làm công tác đảng đều kiêm nhiệm, thường xuyên biến động, công việc chuyên môn nhiều; một số tổ chức đảng, đảng viên trong doanh nghiệp có địa bàn hoạt động sản xuất, kinh doanh phân tán; hoạt động sản xuất, kinh doanh của một số doanh nghiệp không ổn định. 
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá, xếp loại đảng viên ở một số tổ chức đảng thiếu chặt chẽ; việc xử lý đảng viên vi phạm có nơi còn nể nang, thiếu cương quyết; một bộ phận đảng viên, trong đó có cả cấp ủy viên chưa thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, chưa thật sự nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu… 
2. Trên cơ sở thực trạng và nguyên nhân trong công tác phát triển đảng viên khu vực kinh tế tư nhân các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, có thể bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm đối với công tác này:
Một là, công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN là việc khó, đòi hỏi các cấp ủy cần phải có quyết tâm cao, cách làm sáng tạo. Các cấp ủy nêu cao tinh thần trách nhiệm, kiên trì tham mưu về công tác xây dựng đảng; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch của các cấp ủy trực thuộc.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy các cấp luôn thể hiện sự tâm huyết, sâu sát, kiên trì, vận dụng sáng tạo và linh hoạt. Thậm chí, có thời điểm phải “đeo bám” các doanh nghiệp vì ban đầu do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ từ phía doanh nghiệp về tổ chức đảng nên phần lớn các chủ doanh nghiệp cho rằng sinh hoạt đảng phải họp hành, báo cáo, phải chịu ràng buộc nhiều nguyên tắc nhất định nên mất thời gian làm việc, gây ảnh hưởng đối với hoạt động doanh nghiệp. 
Mặc dù đây là công tác khó, những không có nghĩa là không làm và không có cách làm và cách giải quyết. Chính vì vậy, như những gì đã nêu trên, nếu lãnh đạo, chỉ đạo thiếu kiên trì, bền bỉ, “đeo bám” tuyên truyền, giải thích, vận động các doanh nghiệp và đảng viên trong doanh nghiệp thì khó có thể có thành công. 
Hai là, coi trọng công tác tuyên truyền, quán triệt nội dung các văn bản của Trung ương, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, đảng viên, chủ doanh nghiệp về tầm quan trọng và vai trò của công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ nhằm tạo sự đồng thuận và thống nhất cao trong tổ chức thực hiện.
Trong việc triển khai thực hiện chủ trương quản lý đội ngũ đảng viên các DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ, công tác tuyên truyền, quán triệt nội dung các văn bản của Trung ương, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, đảng viên, chủ doanh nghiệp về tầm quan trọng và vai trò của công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN luôn được các cấp ủy đảng và cả hệ thống chính trị đặc biệt quan tâm. Và, coi đây là khâu “đi trước mở đường”. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở tỉnh/thành Nam Bộ phải vừa bám sát chủ trương của Đảng, vừa phải chủ động vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, chú trọng bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác đảng.
Công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ đã có nhiều kết quả quan trọng, song bên cạnh đó cũng cho thấy vẫn còn một số vấn đề đặt ra và cần sớm được khắc phục như trình độ, năng lực của một số cấp ủy, đảng viên còn hạn chế, thiếu tự tin, chưa chuẩn bị đầy đủ các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công tác đảng và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Đối với việc sinh hoạt đảng nhìn chung nội dung còn nghèo nàn, chậm được khắc phục dẫn đến sự nhàm chán. Vì vậy, để khắc phục những tồn tại đã nêu trên, cấp ủy các cấp cần quan tâm chỉ đạo định kỳ mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cấp ủy viên và lãnh đạo các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả các nội dung và hình thức quản lý đội ngũ đảng viên.
Bốn là, phát huy tính tich cực, tự giác của đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ trong việc tự quản lý.
Mỗi đảng viên phải tự quản lý và quyết tâm thực hiện các nội dung, phương thức tự quản lý. Nội dung tự quản lý của mỗi đảng viên phải căn cứ vào Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là quy định về trách nhiệm nêu gương, trên cơ sở đó có kế hoạch, chương trình tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực, tự soi, tự sửa để kịp thời chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc, sai trái; phải tự khép mình vào tổ chức, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, kỷ cương của tổ chức; tích cực tham gia các hoạt động để tự hoàn thiện mình; phải gương mẫu và luôn tiên phong với mọi phong trào cách mạng theo phương châm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Tự quản lý của đảng viên có vai trò rất quan trọng quyết định sự thành công, phát triển và trưởng thành của mỗi đảng viên. Mức độ phát triển của các phẩm chất nhân cách phụ thuộc rất lớn vào ý thức, khả nǎng tự quản lý, tự tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện của mỗi đảng viên. Sự trưởng thành của đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ suy cho đến cùng là kết quả của quá trình "'tự soi", "tự sửa” của họ trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Thực tế cho thấy rằng: ở bất cứ nơi đâu, khi mà đội ngũ đảng viên có ý thức trách nhiệm cao trong tự quán lý và có dũng khí vượt qua những ham muốn cá nhân, những cám dỗ trong cuộc sống thường nhật, luôn đặt mình trong tổ chức, tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện mình ở mọi lúc thì họ luôn giữ gìn và phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu và thực hiện tốt nhiệm vụ của người đảng viên. Và, nguợc lại, nếu bản thân đảng viên sống buông thả, không chịu tu dưỡng, rèn luyện, thoát ly sự quản lý, giáo dục của tổ chức, đặt mình ra ngoài hoặc lên trên tổ chức thì tất yếu sẽ thoái hóa, biến chất về tư tưởng, chính trị đạo đức, lối sống và dẫn đến tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Vì vậy, chỉ khi nào đội ngũ đảng viên thực sự làm chủ bản thân, tự kiểm tra, giám sát, quản lý được mọi hành vi của mình, luôn nghiêm khắc và tích cực, tự giác rèn luyện ở mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm thì họ mới có được lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức cách mạng, mới phòng, chống có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng ở nước ta.
Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của chủ DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ trong công tác quản lý đảng viên.
Các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện chức nǎng kiểm tra, giám sát mọi hoạt động cán bộ, đảng viên. Đối với doanh nghiệp, một phần các doanh nghiệp có những sai phạm trong thời gian gần đây liên quan đến những cá nhân, con người cụ thể như tham ô, tham những, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, lối sống là do sự phát giác, phản ánh của quần chúng nhân dân. Qua đó, những vi phạm được phát hiện và xử lý kịp thời, góp phần điều chỉnh hành vi, làm chuyển biến tình hình của đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp.
Đối với chủ DNNKVNN, phải tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của chủ doanh nghiệp trong xây dựng, kiện toàn các tổ chức đảng trong doanh nghiệp nói chung và trong công tác quán lý đảng viên nói riêng. Một mặt, phải kiên trì giải thích, thuyết phục cho họ về ý nghĩa, vai trò của tổ chức đảng và đảng viên trong hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, tổ chức đảng, đảng viên cần phải đổi mới phương thức hoạt động, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong xây dựng và phát triển doanh nghiệp, đem lại lợi ích chung, trong đó có lợi ích của DNNKVNN, lợi ích của chú DNNKVNN. 
Đó là một số kinh nghiệm bước đầu được rút ra trong quá trình nghiên cứu về việc phát triển đảng viên trong khu vực kinh tế tư nhân. Những kinh nghiệm đó có vấn đề được làm tốt, có kết quả cần được tiếp tục phát huy, thực hiện; đồng thời cũng có vấn đề còn khó khăn, chưa đạt kết quả tốt cần bổ sung, sáng tạo và hoàn thiện thêm.


TS. NGUYỄN THỊ OANH

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin