Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh

CT&PT - Bắc Ninh là một trong những địa phương có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh nhất cả nước, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ. Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn tiềm ẩn nhiều thách thức về tính bền vững, giá trị gia tăng nội địa, và năng lực lan tỏa của khu vực công nghiệp đối với khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh, đánh giá kết quả và hạn chế, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả, xanh và bền vững.

3-1761615986.jpg
Khu công nghiệp Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bắc Ninh

1.1. Kết quả đạt được

 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình tất yếu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phản ánh trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế địa phương. Đối với Bắc Ninh - tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là trung tâm công nghiệp điện tử hàng đầu Việt Nam - chuyển dịch cơ cấu ngành đã và đang diễn ra nhanh chóng, góp phần đưa GRDP bình quân đầu người của tỉnh luôn nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước (ước đạt hơn 170 triệu đồng/người năm 2024).

Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng của Bắc Ninh hiện vẫn phụ thuộc lớn vào khu vực công nghiệp FDI, đặc biệt là các tập đoàn điện tử đa quốc gia như Samsung, Canon, Foxconn…, trong khi khu vực doanh nghiệp trong nước, nông nghiệp công nghệ cao và dịch vụ tri thức chưa thực sự phát triển tương xứng. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách phải điều chỉnh mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiều sâu, nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất, chất lượng và tính tự chủ của nền kinh tế tỉnh trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi xanh.

Từ khi tái lập năm 1997, Bắc Ninh đã có bước phát triển vượt bậc, trở thành hình mẫu điển hình về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Trước đây, Bắc Ninh chủ yếu dựa vào nông nghiệp với tỷ trọng chiếm hơn 60% GRDP, đời sống người dân còn khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức trung bình cả nước. Tuy nhiên, với tầm nhìn chiến lược của tỉnh ủy, UBND tỉnh cùng sự năng động trong thu hút đầu tư, Bắc Ninh đã nhanh chóng chuyển mình, hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp theo hướng hiện đại, năng động và hội nhập quốc tế.

Trong hơn hai thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh luôn duy trì ở mức cao. Kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng cao (bình quân giai đoạn 1997 - 2021 đạt 13,9%/năm); GRDP năm 2021 gấp 23,8 lần năm 1997 (năm 2021 tăng 6,9%, đứng thứ 13 cả nước); quy mô nền kinh tế đứng thứ 8 cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 155,6 triệu đồng, đứng thứ 4 cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năm 2021, khu vực công nghiệp-xây dựng chiếm 77,3%, dịch vụ 16,1%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 2,7%,…1.

Khu vực công nghiệp - xây dựng: động lực tăng trưởng chủ yếu

Công nghiệp là “trụ cột” của nền kinh tế Bắc Ninh. Hiện toàn tỉnh có 16 khu công nghiệp tập trung và 31 cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động, với tổng diện tích quy hoạch gần 10.000 ha. Các khu công nghiệp lớn như Yên Phong, Quế Võ, Tiên Sơn, VSIP Bắc Ninh… thu hút hàng trăm doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó có các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu như Samsung, Canon, Foxconn, Hanwha, Goertek, Amkor, Apple suppliers, v.v.

Tính đến hết năm 2024, Bắc Ninh có hơn 1.700 dự án FDI, với tổng vốn đăng ký trên 25 tỷ USD, xếp thứ 6 cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài2. Ngành công nghiệp, xây dựng tiếp tục đóng vai trò chủ lực, chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế của tỉnh với 68,9%, cho thấy sự phục hồi tích cực. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tăng 1,5% so cùng kỳ năm 2023; trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 1,4%. Một số sản phẩm chủ yếu vẫn duy trì được lượng sản xuất tăng như: linh kiện điện tử tăng 30,9%; dược phẩm có chứa vitamin tăng 50,7%; sắt, thép dùng trong xây dựng tăng 50,1%... Đặc biệt, thu hút đầu tư nước ngoài FDI của Bắc Ninh đứng thứ 3 toàn quốc. Toàn tỉnh cấp mới 202 dự án (tăng gấp 2 lần so cùng kỳ năm 2023) với tổng vốn 660,9 triệu USD (tăng gấp 1,2 lần)3.

image-1761617793.jpg
Thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư, nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn Bắc Ninh là ''điểm đến''.

Không chỉ phát triển mạnh về quy mô, Bắc Ninh cũng đang chuyển dần sang hướng công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ. Nhiều doanh nghiệp đã tham gia vào chuỗi cung ứng linh kiện điện tử, thiết bị bán dẫn, cơ khí chính xác, góp phần nâng dần tỷ lệ nội địa hóa. Một số khu công nghiệp như Yên Phong II-C, VSIP Bắc Ninh II được quy hoạch theo mô hình khu công nghiệp sinh thái, áp dụng công nghệ xanh, tiết kiệm năng lượng và xử lý nước thải tập trung.

Khu vực dịch vụ: phát triển nhanh, đa dạng và năng động

Song hành với công nghiệp, khu vực dịch vụ của Bắc Ninh phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng, chiếm hơn 20% GRDP của tỉnh. Các ngành thương mại, tài chính, ngân hàng, logistics, viễn thông, giáo dục và y tế đều có tốc độ tăng trưởng cao.

Thị trường bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng mở rộng nhanh, với sự xuất hiện của nhiều trung tâm thương mại, siêu thị, chuỗi bán lẻ hiện đại. Các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm hoạt động sôi động, cung ứng vốn và dịch vụ tài chính cho doanh nghiệp. Bắc Ninh cũng là một trong những địa phương có hạ tầng viễn thông - công nghệ thông tin phát triển hàng đầu miền Bắc, tạo nền tảng cho chuyển đổi số trong quản lý hành chính, doanh nghiệp và đời sống dân cư.

Đặc biệt, dịch vụ logistics và vận tải công nghiệp phát triển nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp. Các tuyến quốc lộ 1A, cao tốc Hà Nội - Bắc Giang, đường sắt liên vận quốc tế và hệ thống cảng sông Đuống - Cầu Gáo tạo thành mạng lưới giao thông thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa, kết nối Bắc Ninh với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang và Hưng Yên.

Song song với đó, dịch vụ văn hóa - du lịch được quan tâm đầu tư. Bắc Ninh là vùng đất giàu truyền thống văn hiến, có Dân ca Quan họ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Những năm gần đây, tỉnh đã khai thác thế mạnh này để phát triển du lịch văn hóa, tâm linh, lễ hội; đồng thời đầu tư cơ sở lưu trú, làng nghề gắn với du lịch cộng đồng tại các địa phương như Đình Bảng, Đồng Kỵ, Đại Bái, Phù Lãng...

Khu vực nông nghiệp: chuyển hướng hiện đại, giá trị cao.

Dù tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn khoảng 3% GRDP, nhưng khu vực này vẫn giữ vai trò quan trọng trong ổn định xã hội, đảm bảo an ninh lương thực và phát triển bền vững. Nông nghiệp Bắc Ninh đang chuyển mạnh theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch và nông nghiệp đô thị.

Toàn tỉnh có hàng trăm mô hình nông nghiệp công nghệ cao, trong đó nhiều mô hình sản xuất rau, hoa, quả, chăn nuôi ứng dụng công nghệ Israel, Nhật Bản, Hà Lan… tại các huyện Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành. Các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP được mở rộng, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Một số doanh nghiệp nông nghiệp đã hình thành chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ khép kín, gắn sản phẩm OCOP với du lịch sinh thái nông thôn.

Nhờ vậy, năng suất lao động nông nghiệp tăng bình quân 7 - 8%/năm, thu nhập của nông dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm còn dưới 1%. Các mô hình làng nghề truyền thống như gốm Phù Lãng, đúc đồng Đại Bái, đồ gỗ Đồng Kỵ… được bảo tồn và phát triển theo hướng gắn với du lịch văn hóa - sinh thái, góp phần đa dạng hóa cơ cấu ngành kinh tế nông thôn.

Nhìn chung, cơ cấu ngành kinh tế Bắc Ninh đã chuyển dịch theo hướng tích cực, thể hiện ở ba khía cạnh: (i) giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh công nghiệp và dịch vụ; (ii) thay đổi căn bản mô hình tăng trưởng, từ dựa vào khai thác tài nguyên sang dựa vào công nghệ, nhân lực và hội nhập; (iii) nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng không gian phát triển đô thị - công nghiệp.

1.2. Những hạn chế và thách thức

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh vẫn tồn tại không ít hạn chế, đặt ra yêu cầu đổi mới mô hình phát triển trong giai đoạn tới.

Thứ nhất, tính bền vững và giá trị gia tăng nội địa còn thấp.
Phần lớn hoạt động sản xuất công nghiệp của Bắc Ninh tập trung ở khâu gia công, lắp ráp, phụ thuộc nhiều vào linh kiện, vật tư nhập khẩu. Theo Bộ Công Thương (2024), tỷ lệ nội địa hóa trong ngành điện tử của Bắc Ninh mới đạt dưới 15%, trong khi các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Thái Lan đã đạt 40 - 60%4. Giá trị gia tăng do doanh nghiệp trong nước tạo ra còn hạn chế, chủ yếu là cung ứng dịch vụ phụ trợ, bao bì, vận chuyển. Điều này dẫn tới nguy cơ “lệ thuộc công nghệ” và “vòng xoáy giá trị thấp” nếu không có chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ bài bản.

Thứ hai, sự mất cân đối giữa khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước.
Mặc dù, khu vực FDI đóng góp hơn 85% giá trị xuất khẩu và 70% tổng thu ngân sách, nhưng liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa còn yếu. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước khó tham gia chuỗi cung ứng do hạn chế về vốn, công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng. Tình trạng “hai nền kinh tế song song” - một khu vực FDI năng động và một khu vực doanh nghiệp trong nước yếu thế vẫn là thực tế đáng lưu ý5.

Thứ ba, khu vực dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm và thiếu chiều sâu.
Phần lớn dịch vụ hiện nay vẫn là dịch vụ truyền thống (bán buôn, bán lẻ, ăn uống, vận tải), trong khi các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như R&D, thiết kế, logistics hiện đại, tài chính công nghệ, thương mại số xuyên biên giới còn manh mún. Bắc Ninh chưa hình thành được trung tâm dịch vụ logistics cấp vùng hay sàn thương mại điện tử địa phương quy mô lớn. 

Thứ tư, áp lực môi trường, hạ tầng và đô thị hóa tăng cao.
Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh khiến môi trường tự nhiên và xã hội chịu sức ép lớn. Một số khu, cụm công nghiệp chưa hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải, gây ô nhiễm các sông như Ngũ Huyện Khê, Cầu, Đuống. Rác thải công nghiệp, khí thải, tiếng ồn tại các khu công nghiệp tập trung còn tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống người dân. Bên cạnh đó, hạ tầng xã hội như nhà ở công nhân, trường học, bệnh viện, giao thông nội đô chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế. Các đô thị công nghiệp như Từ Sơn, Yên Phong, Quế Võ đang đối mặt với tình trạng quá tải, thiếu không gian xanh và dịch vụ công cộng.

Thứ năm, nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu và chưa đồng bộ.
Dù tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 70%, song lao động kỹ thuật cao, chuyên gia công nghệ, quản trị sản xuất vẫn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp FDI. Các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh còn thiếu liên kết với nhu cầu doanh nghiệp, dẫn đến “thừa - thiếu cục bộ”: thừa lao động phổ thông nhưng thiếu nhân lực kỹ thuật. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, việc thiếu hụt nhân lực chất lượng cao sẽ là rào cản lớn đối với chuyển dịch cơ cấu ngành theo chiều sâu.

Ngoài ra, Bắc Ninh cũng đang đối diện với thách thức về quản lý quy hoạch và phát triển không gian kinh tế vùng. Việc mở rộng các khu công nghiệp, đô thị cần được điều chỉnh hài hòa với quy hoạch vùng Thủ đô, tránh chồng chéo và cạnh tranh nội vùng. Tỉnh cũng phải đối mặt với nguy cơ “bẫy thu nhập trung bình địa phương” nếu tiếp tục dựa vào mô hình tăng trưởng dựa trên công nghiệp lắp ráp và FDI, thay vì đổi mới sáng tạo và dịch vụ tri thức.

2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn mới
2.1. Quan điểm và định hướng tổng thể

Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, thực hiện mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao, Bắc Ninh - với vị thế trung tâm công nghiệp, đô thị hóa nhanh và hội nhập sâu có vai trò đặc biệt quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XX (2020 - 2025), định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được xác định là “chuyển dịch theo hướng hiện đại, xanh và bền vững; phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao và nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị”.

Như vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Bắc Ninh trong giai đoạn tới không chỉ là sự thay đổi về tỷ trọng các khu vực kinh tế, mà là sự chuyển đổi mô hình phát triển, từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, và chuyển đổi số.

2.2. Định hướng phát triển theo ba trụ cột chính
(1) Phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ và kinh tế xanh.

Công nghiệp vẫn là động lực chủ đạo của tăng trưởng, song trọng tâm phải chuyển từ công nghiệp gia công, lắp ráp sang công nghiệp sáng tạo và công nghiệp giá trị cao. Bắc Ninh cần tái cấu trúc lại các khu công nghiệp hiện có, ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao trong lĩnh vực chất bán dẫn, điện tử thông minh, vật liệu mới, năng lượng sạch, thiết bị y sinh và công nghiệp sinh học.

Định hướng này đòi hỏi tỉnh phải xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo công nghiệp, kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp - viện nghiên cứu - trường đại học. Có thể hình thành “Khu công nghiệp công nghệ cao Bắc Ninh - Yên Phong 3” với định hướng chuyên sâu về R&D, trung tâm kiểm định, chế tạo thử nghiệm, hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ.

Bên cạnh đó, phát triển công nghiệp hỗ trợ là nhiệm vụ trọng tâm. Tỉnh cần ban hành chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực kỹ thuật, khuyến khích doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn FDI. Việc hình thành các cụm liên kết ngành (cluster) trong lĩnh vực điện tử, cơ khí chính xác, vật liệu công nghiệp sẽ giúp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng nội địa.

Một hướng quan trọng khác là công nghiệp xanh và tuần hoàn. Bắc Ninh cần triển khai mô hình khu công nghiệp sinh thái, tái sử dụng chất thải, giảm phát thải carbon theo cam kết “Net Zero 2050” của Việt Nam. Các doanh nghiệp được khuyến khích đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời, xử lý nước tuần hoàn, sản xuất sạch hơn. Đây không chỉ là yêu cầu phát triển bền vững mà còn là điều kiện tiên quyết để Bắc Ninh tham gia chuỗi giá trị toàn cầu xanh - xu thế đang được các tập đoàn đa quốc gia áp dụng rộng rãi.

(2) Phát triển dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ gắn với công nghiệp và kinh tế tri thức.

Cùng với công nghiệp, khu vực dịch vụ cần được xác định là trụ cột thứ hai trong cơ cấu kinh tế mới của Bắc Ninh. Mục tiêu là nâng tỷ trọng dịch vụ lên khoảng 30% GRDP vào năm 2030 và 35% vào năm 2045, trong đó chú trọng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao.

Trước hết, cần phát triển các dịch vụ hỗ trợ công nghiệp: logistics, vận tải đa phương thức, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm công nghiệp, thương mại điện tử, và tư vấn công nghệ. Việc đầu tư xây dựng Trung tâm logistics Bắc Ninh - Tiên Du gắn với cảng cạn ICD và tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn là giải pháp chiến lược nhằm giảm chi phí logistics, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp.

Tiếp đó, phát triển dịch vụ tri thức và kinh tế số là xu hướng tất yếu. Bắc Ninh cần hình thành Trung tâm dữ liệu vùng (Data Center), thu hút doanh nghiệp công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, thiết kế vi mạch và công nghệ tài chính (FinTech). Thành phố Bắc Ninh phấn đấu trở thành đô thị thông minh cấp vùng với các dịch vụ số trong quản lý hành chính, giao thông, năng lượng và y tế.

Ngoài ra, Bắc Ninh có tiềm năng đặc biệt trong dịch vụ văn hóa - du lịch. Việc phát huy giá trị Dân ca Quan họ, di tích Kinh Bắc, cùng hệ thống làng nghề truyền thống, di tích Phật giáo - Nho học, có thể tạo nên chuỗi sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, góp phần đa dạng hóa cơ cấu dịch vụ, tăng thu nhập cho người dân. Phát triển du lịch văn hóa - lễ hội gắn với công nghiệp sáng tạo cũng sẽ giúp Bắc Ninh vừa giữ gìn bản sắc, vừa tạo động lực cho dịch vụ hiện đại.

(3) Phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị và kinh tế nông thôn mới.

Dù tỷ trọng nông nghiệp nhỏ, song đây vẫn là nền tảng ổn định của xã hội và đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững. Bắc Ninh cần tiếp tục tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng giá trị cao và sinh thái, kết hợp giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ - du lịch.

Định hướng là phát triển các vùng nông nghiệp công nghệ cao ở Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành; ứng dụng IoT, cảm biến tự động, blockchain trong truy xuất nguồn gốc. Các sản phẩm chủ lực gồm rau an toàn, hoa cao cấp, chăn nuôi sạch, thủy sản hữu cơ. Đồng thời, đẩy mạnh chương trình OCOP gắn với du lịch nông thôn, tạo sinh kế mới cho nông dân.

Mặt khác, cần khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp thông qua các mô hình hợp tác công - tư, liên kết 4 nhà (Nhà nước - Nhà nông - Nhà doanh nghiệp - Nhà khoa học). Việc hình thành “vành đai nông nghiệp xanh Bắc Ninh” sẽ vừa bảo vệ môi trường sinh thái, vừa cung cấp thực phẩm an toàn cho vùng đô thị - công nghiệp, góp phần cân bằng phát triển không gian kinh tế của tỉnh.

2.3. Phát triển gắn với chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và liên kết vùng

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số là động lực xuyên suốt cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bắc Ninh. Cần triển khai Chương trình chuyển đổi số tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2025 - 2035, trong đó trọng tâm là xây dựng chính quyền số - kinh tế số - xã hội số.

Đối với doanh nghiệp, tỉnh nên hỗ trợ chuyển đổi quy trình sản xuất, kinh doanh, quản trị theo hướng số hóa, áp dụng công nghệ 4.0 trong quản lý dây chuyền, năng lượng, nhân lực. Hình thành các nền tảng thương mại điện tử địa phương, hệ thống thanh toán điện tử và dịch vụ dữ liệu mở cho doanh nghiệp.

Song song với đó, đổi mới sáng tạo và liên kết vùng là yếu tố quyết định. Bắc Ninh cần phát huy vai trò hạt nhân trong “tam giác phát triển” Hà Nội - Bắc Ninh - Bắc Giang, đồng thời mở rộng hợp tác với Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh để hình thành vùng công nghiệp - dịch vụ - đô thị thông minh vùng Thủ đô.

Định hướng này đòi hỏi quy hoạch tích hợp vùng với tầm nhìn dài hạn, chú trọng phân bố hợp lý không gian phát triển, tránh trùng lặp giữa các khu công nghiệp, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Cùng với đó, tỉnh cần tích cực tham gia các mạng lưới hợp tác quốc tế về đổi mới sáng tạo, năng lượng xanh, chuyển đổi số, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP) để mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư chất lượng cao.

3. Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bắc Ninh

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh đã đạt nhiều kết quả quan trọng, song vẫn còn không ít thách thức về chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh và tính bền vững. Trong bối cảnh mới, để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời nâng cao hiệu quả và sức chống chịu của nền kinh tế, tỉnh cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp chiến lược sau:

Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách và quy hoạch phát triển kinh tế theo hướng hiện đại, đồng bộ, bền vững.

Việc hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển là nền tảng của mọi hoạt động tái cơ cấu. Bắc Ninh cần rà soát, điều chỉnh và ban hành Chiến lược chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2025 - 2035, với tầm nhìn 2045, bảo đảm phù hợp với Nghị quyết 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Quy hoạch tổng thể quốc gia 2021 - 2030.

Trọng tâm là xác định các ngành, lĩnh vực ưu tiên, trong đó công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ tri thức và nông nghiệp sinh thái đóng vai trò trụ cột, đồng thời quy hoạch lại không gian phát triển kinh tế theo hướng vùng động lực - vệ tinh, gắn với kết nối vùng Thủ đô. Cần triển khai công cụ giám sát quy hoạch và đầu tư công dựa trên dữ liệu số, đảm bảo minh bạch, tránh chồng chéo giữa các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu đô thị.

Song song, tỉnh cần ban hành chính sách khuyến khích đầu tư có chọn lọc, ưu tiên dự án có hàm lượng công nghệ cao, thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng; kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng. Cơ chế “một cửa liên thông” trong cấp phép đầu tư và đất đai cần được số hóa toàn diện, giảm thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, hấp dẫn nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Hai là, phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ và thúc đẩy liên kết giữa khu vực FDI với doanh nghiệp trong nước.

Công nghiệp tiếp tục là động lực then chốt trong chuyển dịch cơ cấu, song cần chuyển hướng từ “tăng trưởng theo chiều rộng” sang “nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng”. Tỉnh cần triển khai các chương trình chuyển đổi mô hình phát triển khu công nghiệp hiện có sang hướng “khu công nghiệp thông minh, khu công nghiệp sinh thái”, áp dụng tiêu chuẩn quản trị năng lượng và môi trường (ISO 14001, ISO 50001).

Đặc biệt, Bắc Ninh cần xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2030, tập trung vào các lĩnh vực linh kiện điện tử, cơ khí chính xác, vật liệu mới và thiết bị tự động. Chính quyền tỉnh có thể thành lập Quỹ phát triển công nghiệp hỗ trợ, kết hợp hỗ trợ tài chính - kỹ thuật - xúc tiến thị trường cho doanh nghiệp nội địa.

Bên cạnh đó, việc tăng cường liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp Việt Nam là điều kiện quan trọng để lan tỏa công nghệ. Chính quyền cần đóng vai trò “cầu nối” tổ chức định kỳ Diễn đàn liên kết chuỗi cung ứng Bắc Ninh - FDI - Doanh nghiệp nội, giúp doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực cho phía Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác ba bên: chính quyền - doanh nghiệp FDI - doanh nghiệp nội địa.

Ba là, phát triển khu vực dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ gắn với công nghiệp và kinh tế số.

Cơ cấu ngành dịch vụ cần được phát triển theo hướng hiện đại, đóng vai trò “bệ đỡ” cho công nghiệp. Bắc Ninh cần chú trọng phát triển dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, thương mại điện tử, tài chính công nghệ (FinTech) và dịch vụ R&D - thiết kế - kiểm định chất lượng.

Việc đầu tư Trung tâm logistics Bắc Ninh - Tiên Du, kết nối với hệ thống cảng cạn ICD và các tuyến cao tốc, sẽ tạo đột phá trong giảm chi phí vận tải, hỗ trợ chuỗi cung ứng công nghiệp. Cùng với đó, phát triển dịch vụ tri thức và chuyển đổi số như trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây, an ninh mạng, đào tạo nhân lực số sẽ giúp Bắc Ninh trở thành trung tâm dịch vụ công nghệ cao.

Đặc biệt, tỉnh nên thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa - sáng tạo, gắn với khai thác giá trị Dân ca Quan họ Bắc Ninh, làng nghề truyền thống và di tích Kinh Bắc, nhằm mở rộng không gian dịch vụ và nâng cao bản sắc địa phương. Sự kết hợp giữa dịch vụ văn hóa và công nghiệp sáng tạo sẽ tạo ra chuỗi giá trị mới, góp phần tăng tỷ trọng dịch vụ trong GRDP và phát triển du lịch bền vững.

Bốn là, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị và nông nghiệp công nghệ cao.

Mặc dù tỷ trọng nhỏ, nông nghiệp Bắc Ninh vẫn giữ vai trò ổn định xã hội và đảm bảo an ninh lương thực. Trong giai đoạn mới, tỉnh cần chuyển mạnh từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao.

Cần quy hoạch vùng sản xuất tập trung ứng dụng công nghệ hiện đại (IoT, cảm biến, tự động hóa) tại các huyện Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành; khuyến khích hình thành trung tâm chế biến nông sản công nghệ cao, gắn với tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm. Đồng thời, tỉnh nên phát triển chương trình OCOP gắn với du lịch nông thôn, hình thành mô hình “làng sinh thái - du lịch trải nghiệm” để nâng cao thu nhập cho nông dân và đa dạng hóa cơ cấu kinh tế nông thôn.

Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao thông qua ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai; khuyến khích hợp tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường. Việc hình thành vành đai nông nghiệp xanh quanh khu công nghiệp cũng giúp bảo đảm cân bằng sinh thái, hạn chế ô nhiễm, đáp ứng tiêu chí phát triển xanh và bền vững của tỉnh.

Năm là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt quyết định thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu. Bắc Ninh cần triển khai Chiến lược phát triển nhân lực giai đoạn 2025 - 2035, tập trung vào ba nhóm: nhân lực công nghiệp công nghệ cao, nhân lực dịch vụ hiện đại và nhân lực quản trị - sáng tạo.

Trước hết, cần đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp, trường đại học, cơ sở đào tạo nghề nhằm gắn kết đào tạo với nhu cầu thực tiễn sản xuất. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần đổi mới chương trình đào tạo theo hướng “kỹ năng số - tư duy sáng tạo - ngoại ngữ - công nghệ 4.0”. Tỉnh có thể thành lập Trung tâm đào tạo kỹ năng số Bắc Ninh, phối hợp cùng các tập đoàn công nghệ lớn (Samsung, Foxconn, FPT, Viettel) để đào tạo lao động kỹ thuật cao.

Song song, cần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo với các trung tâm nghiên cứu - khởi nghiệp, vườn ươm công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm địa phương. Bắc Ninh có thể phát triển Công viên công nghệ sáng tạo Bắc Ninh - Kinh Bắc, trở thành không gian thử nghiệm cho các giải pháp công nghiệp thông minh, năng lượng sạch, robot, tự động hóa.

Sáu là, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, phát triển kinh tế số và chính quyền số.

Chuyển đổi số là động lực xuyên suốt cho mọi lĩnh vực. Bắc Ninh cần triển khai mạnh Chương trình chuyển đổi số giai đoạn 2025 - 2035.

Tỉnh nên xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung về đất đai, dân cư, doanh nghiệp, đầu tư, tích hợp với hệ thống quản lý thông minh. Thúc đẩy thanh toán điện tử, chữ ký số, nền tảng dữ liệu mở, giúp doanh nghiệp và người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ công trực tuyến. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp công nghiệp ứng dụng AI, Big Data, IoT trong sản xuất và quản lý, nhằm tăng năng suất lao động và giảm chi phí.

Việc phát triển chính quyền số Bắc Ninh không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả điều hành, mà còn tạo niềm tin cho doanh nghiệp, thúc đẩy hình thành môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, thuận lợi.

Bảy là, tăng cường bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh và nâng cao năng lực quản trị phát triển bền vững.

Tỉnh cần ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh Bắc Ninh 2025 - 2035, hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính 20% vào năm 2035. Đặc biệt, phải kiểm soát chặt chẽ nước thải, khí thải trong khu công nghiệp, thúc đẩy mô hình doanh nghiệp tuần hoàn, tái sử dụng năng lượng và chất thải.

Đồng thời, Bắc Ninh cần nâng cao năng lực quản trị địa phương, phát huy vai trò của chính quyền đô thị thông minh, cơ chế công khai thông tin và sự giám sát của người dân. Chỉ khi quản trị minh bạch, có trách nhiệm và dựa trên dữ liệu, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới thực sự hiệu quả và bền vững.


1. Trần Mạnh: Từ một tỉnh thuần nông, Bắc Ninh đã vươn lên dẫn đầu cả nước về sản xuất công nghiệp, ngày 26/02/2022, https://baochinhphu.vn/tu-mot-tinh-thuan-nong-bac-ninh-da-vuon-len-dan-dau-ca-nuoc-ve-san-xuat-cong-nghiep-102220226143020773.htm
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Số liệu thống kê FDI Việt Nam năm 2024, Hà Nội.
3. An Trân: Bắc Ninh: Kinh tế có dấu hiệu khởi sắc, tạo đà cho mục tiêu tăng trưởng, ngày 12/6/2024, https://nhandan.vn/bac-ninh-kinh-te-co-dau-hieu-khoi-sac-tao-da-cho-muc-tieu-tang-truong-post813967.html
4. Bộ Công Thương. Báo cáo phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ năm 2024. Hà Nội: Bộ Công Thương, 2024.
5. Nguyễn Quang Minh: Liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp nội địa tại Bắc Ninh: Thực trạng và khuyến nghị”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 6 (2023): 55–64.
 

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin