Chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam

CT&PT - Chính sách bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam là biện pháp bảo vệ của Nhà nước, nhằm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro cho mọi người dân khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già nên không còn sức lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác, thông qua các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cứu trợ xã hội, trợ giúp và ưu đãi xã hội. Có thể khẳng định, chính sách xã hội là hệ thống chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách phát triển bền vững đất nước, có vai trò quan trọng đối với sự ổn định và phát triển xã hội cũng như đối với mỗi cá nhân.

1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo đảm an sinh xã hội
Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, là vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước, nhằm chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây cũng là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững đất nước. Trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chăm lo vấn đề an sinh xã hội. Ngay từ năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng ta đã xác định: “Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị…”1. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đảng coi đây là một định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…”2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục phát triển quan điểm về chính sách an sinh xã hội: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân... Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống”4. Kế thừa quan điểm của các kỳ đại hội trước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế”5. Như vậy, an sinh xã hội là một trong những nội dung được đề cập xuyên suốt trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng ta. Qua các kỳ đại hội, quan điểm về chính sách an sinh xã hội của Đảng là nhất quán, ngày càng đồng bộ và toàn diện trên các lĩnh vực: xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, ưu đãi người có công với đất nước, trợ giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. 
Có thể khái quát quan điểm của Đảng ta về bảo đảm an sinh xã hội như sau:
Một là, chính sách an sinh xã hội hướng vào phát triển con người, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Bảo đảm an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững. Kết hợp hài hòa giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; khẳng định “càng đi vào kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân”6.
Hai là, bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của toàn xã hội trong việc bảo đảm an sinh xã hội theo tinh thần xã hội hóa, tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.
Ba là, xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, linh hoạt, bảo đảm chủ động, tích cực và có tính xã hội hóa cao; đồng thời huy động được mọi nguồn lực xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Bốn là, xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm công bằng về trách nhiệm và lợi ích, có thể hỗ trợ lẫn nhau kịp thời và hiệu quả, chia sẻ rủi ro, hướng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, góp phần quan trọng thúc đẩy xoá đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
2. Chính sách an sinh xã hội của Việt Nam và vai trò của Nhà nước trong thực hiện chính sách an sinh xã hội
Chính sách an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay
Chính sách an sinh xã hội có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Trên cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng về bảo đảm an sinh xã hội và thực tiễn đất nước, trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách an sinh xã hội, đồng thời không ngừng cải cách, bảo đảm phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của người dân, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước. 
Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cứu trợ xã hội, trợ giúp và ưu đãi xã hội. Về thực chất, các hình thức an sinh xã hội nhằm thực hiện ba chức năng cơ bản là phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro. So với các quốc gia khác, chính sách an sinh xã hội ở của nước ta có thêm chính sách ưu đãi xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu đền ơn, đáp nghĩa đối với những người có công với cách mạng, đất nước; thể hiện trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và xã hội trong việc chăm lo, cải thiện và bảo đảm cuộc sống ổn định cho người có công. Hệ thống an sinh xã hội của nước ta được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Các chính sách trợ giúp xã hội, bao gồm cả thường xuyên và đột xuất, được mở rộng quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh; hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại… được quan tâm phát triển, đặc biệt ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng các dịch vụ được cải thiện về nhiều mặt, khả năng tiếp cận của nhân dân ngày càng được nâng cao. Các biện pháp cứu trợ đồng bào bị thiên tai, dịch bệnh được thực hiện hiệu quả.
Chính sách an sinh xã hội của Việt Nam đặt trọng tâm vào công tác xóa đói, giảm nghèo, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống chung của nhân dân. Theo đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo. Các chính sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: Thứ nhất, giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ công, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; Thứ hai, hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về đất đai, tín dụng, phát triển ngành, nghề; Thứ ba, phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. 
Hiện nay, số lượng đối tượng được tiếp cận và hưởng lợi từ chính sách an sinh xã hội ngày càng được mở rộng, chất lượng cung cấp dịch vụ an sinh xã hội từng bước được nâng cao, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận trong xã hội, ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng.
Cùng với việc quy định đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, Nhà nước ban hành quy định đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện, tạo cơ hội thuận lợi cho người lao động, đặc biệt là lao động trong khu vực phi chính thức, tiếp cận với chế độ an sinh cơ bản. Việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tạo điều kiện cho người lao động tự do di chuyển, lựa chọn nơi làm việc thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau, phù hợp với khả năng và nguyện vọng cá nhân, song vẫn bảo đảm duy trì ổn định chế độ bảo hiểm xã hội cho bản thân họ. Đây là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, phát huy và sử dụng triệt để nguồn nhân lực xã hội của đất nước.
Có thể khẳng định những kết quả đạt được trong thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội trong thời gian qua như sau: Một là, Nhà nước đã tập trung hoạch định, thể chế hóa hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Hai là, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội được tăng cường; Ba là, đối tượng và chế độ của chính sách bảo đảm an sinh xã hội ngày càng được mở rộng; Bốn là, nguồn lực tài chính để thực hiện chính sách an sinh xã hội được bảo đảm. Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội ở nước ta ngay trong từng bước đi, từng giai đoạn của quá trình phát triển kinh tế. Có được những thành tựu trên là do: 1) Các chiến lược bảo đảm an sinh xã hội được sửa đổi phù hợp, bổ sung kịp thời, tạo cơ sở cho các hoạt động an sinh xã hội phù hợp với thực tiễn đất nước; 2) Chủ trương xã hội hóa hoạt động an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước là động lực quan trọng cho việc triển khai các chính sách bảo đảm an sinh xã hội đạt hiệu quả, bước đầu huy động được các nguồn lực trong xã hội. 
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội cũng bộc lộ một số hạn chếnhất định:  Một là, các chính sách an sinh xã hội của nước ta chưa ổn định, đồng bộ và lâu dài. Hai là, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách an sinh xã hội trên thực tế chưa thực sự hiệu quả, còn nhiều bất cập. Ba là, mặc dù đã được cải thiện, song phạm vi bao phủ và mức độ tác động của chính sách bảo đảm an sinh xã hội đối với người dân chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bốn là, đầu tư, quản lý nguồn lực tài chính phục vụ việc thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập trên là do: 1) Công tác lãnh đạo, quản lý còn nhiều yếu kém, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, nhận thức về bảo đảm an sinh xã hội chưa đầy đủ; 2) Chưa hình thành được hệ thống an sinh xã hội rộng khắp với g cơ chế chủ động, tích cực, bền vững, tạo chỗ dựa vững chắc cho người nghèo, hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo; 3) Chưa huy động được sự tham gia của toàn xã hội trong thực hiện công tác bảo đảm an sinh xã hội.
Vai trò của Nhà nước trong thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội
Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định và thực thi chính sách bảo đảm an sinh xã hội. 
- Nhà nước xây dựng định hướng, mục tiêu, nội dung, cơ chế thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển con người và bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội.
- Nhà nước đóng vai trò chính trong việc hoạch định cũng như thể chế hóa chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội; xác lập quyền và trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm an sinh xã hội cho người dân; đồng thời, xác lập nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, công khai và công bằng trong thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” kết hợp với “lấy số đông bù số ít” là nguyên tắc chủ đạo trong thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta. Nhà nước chủ trương thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội theo phương châm đa dạng hóa và xã hội hóa dựa trên sự kết hợp giữa Nhà nước - xã hội và bản thân đối tượng. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò là chủ thể bảo vệ và hỗ trợ cuối cùng khi các hình thức bảo vệ khác không thể giải quyết được. Cộng đồng xã hội và bản thân đối tượng giữ vai trò quyết định trong việc tự tích lũy, chủ động phát huy khả năng vươn lên, khắc phục khó khăn hòa nhập cộng đồng.
- Nhà nước giữ vai trò chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát và bảo trợ về tài chính cho các chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
- Nhà nước có vai trò và nhiệm vụ sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cứu trợ xã hội, trợ giúp và ưu đãi xã hội nhằm giúp đỡ các thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghè, cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
- Nhà nước sử dụng chính sách bảo đảm an sinh xã hội với tư cách là một công cụ quản lý để điều tiết và thực hiện chức năng xã hội của mình; điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục tiêu và phương hướng định sẵn; thực hiện tái phân phối của cải xã hội nhằm giảm bớt sự phân hóa giàu - nghèo và phân tầng xã hội, góp phần giữ vững trật tự và ổn định xã hội, đảm bảo công bằng và phát triển bền vững. Nghĩa là, Nhà nước phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ kinh tế nhà nước để thực hiện chính sách cơ cấu, nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm các yêu cầu cơ bản về an sinh xã hội,
- Nhà nước quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính cho việc thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Hằng năm, Nhà nước dành một khoản ngân sách ổn định cho việc thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời, Nhà nước giữ vai trò điều tiết và hỗ trợ các quỹ bảo đảm an sinh xã hội, hạn chế thấp nhất nguy vỡ quỹ có thể làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người thụ hưởng chính sách. 
3. Hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội 
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra
1) Hình thành khung chính sách bảo đảm an sinh xã hội năng động, đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, để họ vượt qua khó khăn, rủi ro trong cuộc sống. Ngày nay, vai trò của chính sách bảo đảm an sinh xã hội không chỉ giới hạn trong việc tái phân bổ thu nhập và trợ cấp để bảo đảm nhu cầu vật chất cơ bản cho người dân, mà đây còn là phương tiện bảo vệ cá nhân trước những rủi ro trong cuộc sống, hướng đến phát triển con người toàn diện. 
2) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Ưu tiên hoàn thiện các chính sách xã hội có tính bức xúc, chính sách đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn; tránh cào bằng, hỗ trợ theo nhu cầu; tạo động lực phấn đấu cho đối tượng thụ hưởng, khuyến khích người dân chủ động, tích cực tự an sinh. Cần có chiến lược lâu dài đối với một số chính sách có tầm chiến lược, liên quan đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội: chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,… Tăng cường sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp vào quá trình hoạch định chính sách.
Thứ hai, hoàn thiện cơ sở lý luận của hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội 
Hoàn thiện cơ sở lý luận của hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội trên cơ sở kế thừa và phát triển chính sách hiện hành, có tính đến điều kiện kinh tế - xã hội, bảo đảm phù hợp với bối cảnh của một nước đang phát triển với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa bước vào ngưỡng thu nhập trung bình; tham khảo kinh nghiệm của các nước trong điều kiện hội nhập quốc tế; gắn chính sách bảo đảm an sinh xã hội với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đó là điều kiện bảo đảm cho các chính sách an sinh xã hội đi đúng hướng, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, cần bảo đảm tính đồng bộ giữa các chính sách an sinh xã hội, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, bảo đảm mọi người dân đều có quyền hưởng an sinh xã hội.
Thứ ba, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm an sinh xã hội, đồng thời quyết liệt đưa các văn bản pháp luật vào cuộc sống. Nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Cứu trợ xã hội, Luật Ưu đãi xã hội; nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người tàn tật, Luật Người cao tuổi...; nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật về bảo đảm an sinh xã hội cộng đồng, nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ an sinh xã hội.
- Trên cơ sở rà soát, đánh giá toàn diện, điều chỉnh, bổ sung các chính sách hiện hành về bảo đảm an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, hệ thống hỗ trợ tích cực..., bảo đảm phù hợp với tình hình mới. Tích cực cụ thể hóa các mục tiêu an sinh xã hội được đề ra.
- Bảo đảm tính phù hợp giữa chính sách bảo đảm an sinh xã hội với các chính sách kinh tế - xã hội khác: chính sách việc làm, chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện các chương trình hỗ trợ tích cực, chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững...; tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng và vùng đặc thù.

 

1, 2, 3, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 932; 2016, t. 60, tr. 132.

3, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2018, t. 67, tr. 110; t. 65, tr. 262.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 137.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, 2021, tr. 150.

ThS. ĐẶNG ĐÌNH GIANG

Viện Lãnh đạo học và Chính sách công

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin