CT&PT - 50 năm lịch sử đã đi qua, song Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không năm 1972” mãi là niềm tự hào của cách mạng dân tộc, khẳng định tầm vóc, vị thế và nghệ thuật quân sự đỉnh cao của cách mạng Việt Nam; khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, là bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và là động lực thúc giục chúng ta đi tới, giành nhiều thắng lợi trên hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Bối cảnh lịch sử và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”
Khi Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn, đầu năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam và sử dụng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam lần thứ nhất. Bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam - Bắc, ngày 01/11/1968, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom, kết thúc cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, đồng thời chuyển sang thực hiện Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Phân tích những âm mưu và hành động của đối phương, Bộ Chính trị nhận định, Mỹ sẽ đánh phá trở lại miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, có nhiều khả năng chúng sẽ dùng máy bay B-52 đánh ồ ạt Hà Nội, Hải Phòng... Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống này càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”1. Nhiệm vụ của Quân chủng Phòng không - Không quân là tập trung mọi khả năng, nhắm trúng máy bay B-52 mà tiêu diệt. Kế hoạch chuẩn bị đánh trả và phòng tránh máy bay B-52 được quân và dân ta triển khai khẩn trương, tích cực, chủ động, kiên quyết; trong đó, lực lượng nòng cốt là quân chủng Phòng không - Không quân. Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, đặc biệt là sự quan tâm, nhắc nhở thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh trả một cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội trong vòng 5 năm tới và đúc kết kinh nghiệm thực tiễn quá trình chiến đấu trong cuốn cẩm nang đỏ mang tên “Cách đánh B-52” của Bộ đội Tên lửa.
Sau sự thất bại của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong “Chiến dịch Lam Sơn 719”, Quân đội nhân dân Việt Nam tại miền Nam liên tục mở các cuộc tấn công vào các căn cứ và vị trí chiến lược của Việt Nam Cộng hòa qua “Chiến dịch Xuân Hè 1972”, làm thất bại hoàn toàn kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Nhằm giữ thể diện của một siêu cường quân sự và để rút quân trong danh dự, ngày 14/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon đã chính thức phê chuẩn kế hoạch tập kích chiến lược B-52, tiến hành cuộc đánh bom lần cuối với tên gọi “Chiến dịch Linebacker II” (Cứu bóng trước khung thành II). Mục tiêu đặt ra trong chiến dịch này nhằm duy trì nỗ lực tối đa để phá hủy tất cả các tổ hợp mục tiêu chính ở khu vực Hà Nội và Hải Phòng, trong đó phá hủy đến mức tối đa những mục tiêu quân sự chọn lọc tại vùng lân cận của Hà Nội, Hải Phòng, đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá, giảm bớt sự hỗ trợ quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho chiến trường miền Nam.
Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị chuyên đề bàn cách đánh B-52 ngày 06/7/1972, Phó Tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài kết luận và chỉ thị phải đẩy mạnh nghiên cứu cách đánh B-52 bằng vũ khí hiện có của Quân chủng Phòng không - Không quân. Đánh Mỹ, bắn rơi được B-52 là nhiệm vụ cấp bách, là yêu cầu cao về quân sự, chính trị, ngoại giao. Quân chủng Phòng không - Không quân phải chuẩn bị chi tiết cả con người và vũ khí để chiến thắng B-52 khi địch xâm phạm bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác. Việc nghiên cứu chuẩn bị kế hoạch đánh B-52 được triển khai gấp rút và đã căn bản hoàn thành vào đầu tháng 9/1972. Dựa vào kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn chiến đấu và những hiểu biết ngày càng nhiều về vũ khí, khí tài và thủ đoạn hoạt động của địch, tài liệu “Cách đánh B-52” sau nhiều lần bổ sung, hoàn chỉnh, đã góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu của bộ đội. Bộ đội pháo cao xạ, rađa, tên lửa và không quân được lệnh triển khai huấn luyện chiến đấu theo các phương án đã được kết luận. Một số trận địa tên lửa, trận địa cơ động cho pháo cao xạ và sân bay dã chiến được bí mật xây dựng. Dân quân, tự vệ Hà Nội và một số thành phố được bổ sung hỏa lực bắn máy bay. Công tác bảo đảm quan sát, thông tin được tăng cường. Công tác chuẩn bị mọi mặt được tiến hành hết sức khẩn trương. Quân chủng tập trung huy động, điều chỉnh lực lượng theo thế trận chiến tranh nhân dân trên toàn miền Bắc, điều chỉnh đội hình chiến đấu; triển khai Sở chỉ huy dự bị các cấp, báo cáo để Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động quân sự đấu tranh với Mỹ, Ngụy trên chiến trường miền Nam nhằm co kéo, phân tán lực lượng địch ở cả hai miền Nam - Bắc. Ngày 03/12/1972, Quân chủng Phòng không - Không quân đã hoàn thành công tác chuẩn bị chống tập kích đường không, quyết tâm không để bị bất ngờ, bắn rơi tại chỗ máy bay địch, kể cả B-52. Một sự trùng hợp lịch sử: Hà Nội lại nổi lửa diệt thù đúng vào ngày Thủ đô vùng lên kháng chiến (ngày19/12/1946) - 26 năm sau, từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972.
2. Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không năm 1972” - Đỉnh cao nghệ thuật quân sự của cách mạng Việt Nam
Từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, quân dân miền Bắc Việt Nam đã anh dũng chiến đấu đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược của không quân Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, lập nên một kỳ tích vang dội: Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Trong trận đánh B-52 đêm ngày 18 rạng ngày 19/12/1972, địch sử dụng 400 lần chiếc máy bay chiến thuật và 90 lần B-52 đánh hơn 100 điểm khu dân cư, chúng ném xuống khoảng trên 6.000 quả bom làm chết 300 người; ta bắn rơi 3 máy bay B-52, 5 máy bay phản lực, bắt sống 7 phi công Mỹ. Đêm 20 rạng ngày 21/12/1972, Bộ đội Tên lửa Phòng không bảo vệ Hà Nội đã thực hiện trận đánh xuất sắc, chỉ 35 quả đạn bắn rơi 7 máy bay B- 52, trong đó có 5 máy bay bị bắn rơi tại chỗ. Trong 12 ngày đêm chiến đấu kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân dân ta đã bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B-52 (16 máy bay rơi tại chỗ, 18 máy bay bị thương và rơi ngoài lãnh thổ Việt Nam), 5 máy bay F111 và 42 máy bay chiến thuật khác, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm giặc lái Mỹ”2. Lần đầu tiên trong lịch sử, “siêu pháo đài bay B-52” thảm bại và không quân Mỹ phải chịu thiệt hại nặng nề nhất. 7 giờ sáng ngày 30/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc và ngồi vào bàn đàm phán để ký kết Hiệp định Paris 1973 về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đây là cuộc đọ sức quyết liệt nhất từ trước tới nay. Chiến thắng này mang nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự. Bộ Chính trị và Bộ Tổng Tư lệnh của ta đã phán đoán chính xác mưu đồ và quy luật đánh phá của không quân chiến lược địch, xác định đúng đối tượng tác chiến (B-52), từ đó sớm xây dựng kế hoạch tổ chức chiến dịch chu đáo. Kết hợp chặt chẽ phương thức tác chiến tại chỗ rộng khắp với phương thức tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng, trong đó lấy phương thức tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng làm quyết định. Nghệ thuật tác chiến phòng không, hiệp đồng chiến đấu quân binh chủng của bộ đội ta đã chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của lực lượng phòng không ba thứ quân mà nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân. Lựa chọn khu vực tác chiến chủ yếu đúng (Hà Nội), từ đó xây dựng thế trận phòng không vững chắc gồm nhiều tuyến, nhiều tầng, có chiều sâu, lấy lực lượng tên lửa phòng không làm nòng cốt. Mở màn chiến dịch chủ động, tập trung chỉ đạo đánh thắng ngay trận đầu, đánh thắng trận then chốt nhằm tiêu diệt địch trong từng trận, tạo đà tiêu diệt lớn về mặt chiến dịch.
Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không năm 1972” có ý nghĩa lịch sử to lớn của dân tộc ta. Đây là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, thắng lợi của sức mạnh chính trị tinh thần toàn dân tộc với trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí quyết đánh, biết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, khẳng định tầm vóc của dân tộc tuy “nhỏ” nhưng không “yếu” với bạn bè quốc tế, nhân dân yêu chuộng hoà bình, phản đối chiến tranh. Chiến thắng oanh liệt, hào hùng của trận quyết chiến chiến lược trên bầu trời Hà Nội cuối năm 1972 đã góp phần kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược lâu dài, hao người tốn của của một đạo quân viễn chinh; góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng đã giành được, tạo ra bước chuyển chiến lược căn bản về cục diện của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Âm hưởng của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của một chiến dịch, góp phần quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu “đánh cho Mỹ cút” sau khi Hiệp định Paris được ký kết, tạo tiền đề “đánh cho Ngụy nhào” vào mùa Xuân năm 1975. “Điện Biên Phủ trên không” là sự kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh lịch sử; xứng đáng là một đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại. Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là chiến thắng của chế độ xã hội mới, được bắt nguồn từ bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội và tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh mà nhân dân ta tiến hành. Chiến thắng đó chứng minh một chân lý của thời đại ngày nay: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, một dân tộc tuy đất không rộng, người không đông nhưng biết đoàn kết đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của một đảng mác xít chân chính, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn thì có thể chiến thắng mọi kẻ thù dù chúng có vũ khí trang bị hiện đại nhất. Đồng thời, chiến thắng này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước khi nước chưa nguy trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay.
3. Bài học kinh nghiệm của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không năm 1972”
Thắng lợi của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu:
Một là, đánh giá đúng tình hình, dự báo sớm, chính xác âm mưu và hành động chiến tranh của địch, bảo đảm sự chủ động về mọi mặt để đối phó thắng lợi khi tình huống xảy ra
Từ cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm dự báo được tình hình. Trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học quy luật chiến tranh, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, bản chất, âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và những động thái mang tính thụ động của chúng; đồng thời, căn cứ vào những chuyển biến có lợi đối với ta ở chiến trường miền Nam, nhất là từ sau chiến thắng của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào và cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Đảng ta nhận định, với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ không dễ dàng chấp nhận thua cuộc, mà chúng sẽ sử dụng biện pháp quân sự, hòng tạo thế mạnh để buộc ta chấp nhận những điều kiện của chúng trên bàn đàm phán. Vì thế, khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc tập kích chiến lược đường không, chủ yếu bằng máy bay B-52 tập trung vào Hà Nội, Hải Phòng, ta không bị bất ngờ; ngược lại, còn chủ động hoàn toàn cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; sớm có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, cả “tinh thần và lực lượng”, phối hợp chặt chẽ giữa quân sự và ngoại giao. Bài học này còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Hai là, kiên định đường lối lãnh đạo của Đảng, xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng
Trong “Chiến dịch Linebacker II”, đế quốc Mỹ sử dụng lực lượng lớn máy bay chiến lược B-52 (một trong bộ ba vũ khí răn đe chiến lược của chúng), hòng đưa “Hà Nội trở lại thời kỳ đồ đá”, đè bẹp tinh thần, ý chí chiến đấu của nhân dân ta và giành lợi thế để ép ta trong đàm phán, song chúng đã thất bại thảm hại. Sự thất bại đó là tất yếu, bởi chúng ta có sức mạnh do nhiều yếu tố tạo thành; trong đó, yếu tố quan trọng, quyết định nhất là sự lãnh đạo của Đảng đã đề ra những quyết sách đúng đắn và kịp thời để quân và dân ta, trực tiếp là quân và dân Hà Nội, nòng cốt là lực lượng Phòng không - Không quân chủ động tiến hành công tác chuẩn bị và thực hành chiến dịch, nêu cao ý chí chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, “vạch nhiễu tìm thù”, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, lựa chọn cách đánh phù hợp, đánh bại “pháo đài bay B-52”.
Trải qua những năm tháng chiến đấu với không quân Mỹ, trinh sát của ta luôn nắm chắc tình hình địch; tìm hiểu quy luật hoạt động của không quân địch; nghiên cứu đường bay của máy bay trinh sát của địch để ta phán đoán hướng bay vào của mỗi đợt tập kích. Với phương châm: “Biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng”, Đảng và quân dân ta thường xuyên nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch, nắm vững lực lượng mà địch sử dụng, ý đồ và hướng tiến công chủ yếu, số chất lượng các loại vũ khí trang bị của địch để có phương án tác chiến phù hợp, hiệu quả, đồng thời nắm chắc lực lượng, tinh thần, khả năng chiến đấu của quân và dân ta để xây dựng phương án tác chiến phù hợp.
Ba là, kế thừa và phát huy nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn trên cơ sở phát huy nhân tố chính trị tinh thần, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
Cuộc chiến đấu 12 ngày đêm chống tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ là một cuộc đọ sức đầy thử thách đối với quân và dân ta dể chống lại lực lượng quân sự hùng mạnh với các loại vũ khí trang bị hiện đại, tối tân. Để giành chiến thắng, chúng ta đã biết kế thừa và phát huy nghệ thuật chiến tranh của cha ông ta, lấy ít địch nhiều lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong cuộc chiến đấu này, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam một lần nữa được tỏa sáng bằng ý chí quyết đánh, biết đánh và quyết thắng của quân và dân ta. Sức mạnh chính trị tinh thần được biểu hiện ở tinh thần vượt mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đoàn kết hiệp đồng lập công tập thể; ở lòng tin, quyết tâm đánh thắng trận đầu, bắn rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái, tạo niềm tin đánh bại hoàn toàn mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
Trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, theo chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh, Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị trong toàn lực lượng, giúp cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn về âm mưu thâm độc của kẻ thù, nhất là thủ đoạn sử dụng máy bay B-52 đánh phá quy mô lớn ở miền Bắc, trọng tâm là Hà Nội, Hải Phòng. Trên cơ sở đó, động viên tinh thần tích cực, chủ động của các đơn vị trong quân chủng xây dựng quyết tâm, kế hoạch đánh B-52. Có thể khẳng định, sự chủ động về tinh thần, ý chí và sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”.
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang ba thứ quân, thế trận quốc phòng toàn dân, phòng không nhân dân vững chắc
Thắng lợi của chiến dịch cho thấy chúng ta đã rất thành công trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang ba thứ quân, sức mạnh tổng hợp của toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận phòng không nhân dân, tạo nên hệ thống hỏa lực phòng không rộng khắp, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù. Đó là sức mạnh của bộ đội Phòng không - Không quân nhân dân Việt Nam (lực lượng chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam). Trong thế trận đó, phải kể đến vai trò của: Bộ đội Rađa; Bộ đội Không quân tiêm kích; Bộ đội Tên lửa Phòng không; Bộ đội Pháo Phòng không. Ngoài lực lượng chủ lực đó, lực lượng Phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ (nhất là Hà Nội, Hải phòng) là lực lượng tại chỗ rộng khắp, đánh máy bay địch bay thấp hoạt động tốp nhỏ, chiếc lẻ, trực tiếp bảo vệ các mục tiêu quan trọng của địa phương có vai trò quan trọng.
Cùng “chia lửa” với đồng bào miền Bắc, quân và dân miền Nam đã đẩy mạnh tiến công Mỹ - Ngụy, triển khai lực lượng, tổ chức chiến đấu trên khắp chiến trường miền Nam, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó trên nhiều hướng, nhiều mặt trận, làm giảm sức chiến đấu của địch, gây tư tưởng chán nản, hoang mang trong binh lính với các trận đánh chống lại cuộc phản kích của không quân và hải quân Mỹ ở Bình Trị Thiên, Bắc Bình Định, Tây Nguyên; các mặt trận ở Quảng Trị, Nam Bộ, Trung Bộ đều phối hợp tiến công mạnh mẽ, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế bao vây, uy hiếp đối với Mỹ - Ngụy.
Năm là, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế và của nhân dân tiến bộ trên thế giới
Chiến dịch Linebacker II bị phản đối mạnh mẽ trên khắp thế giới, không chỉ với các nước xã hội chủ nghĩa mà cả các nước tư bản phương Tây. Chính phủ và báo chí các nước đã lên tiếng chỉ trích hành động của đế quốc Mỹ; Tòa án quốc tế được lập ra để xét xử các tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ tại Việt Nam. Ngay trong chính nước Mỹ, nhân dân cũng biểu tình đòi Chính phủ phải chấm dứt ném bom ở miền Bắc Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa, thắng lợi của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không năm 1972” là thắng lợi chung của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Do đó, chúng ta không hề đơn độc. Nhân dân ta đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ to lớn cả về tinh thần và vật chất của bạn bè quốc tế, của nhân dân tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ. Đó là sức mạnh của sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em; sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, của các lực lượng cách mạng, dân chủ hoà bình, tiến bộ; góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đi đến thắng lợi hoàn toàn, đánh dấu mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam và thế giới.
1. Nguồn Sức mạnh: Bác Hồ với bộ đội phòng không, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1992, tr. 38.
2. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2013, t. 7, tr. 355.
ThS. LÊ VŨ XUÂN UYÊN
Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh