Hội nhập quốc tế (HNQT) là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm1. Tác động của quá trình HNQT đã tạo ra cả những yếu tố tích cực và tiêu cực, vừa tạo thuận lợi lại vừa tạo ra nhiều thách thức, khó khăn đến xây dựng và bảo vệ quyền độc lập dân tộc của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.
1.Tác động tích cực của hội nhập quốc tế đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quyền độc lập dân tộc Việt Nam
Về kinh tế: Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới xác định: HNQT chính là “động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”2.
Rõ ràng, HNQT là cơ hội giúp Việt Nam tranh thủ thời cơ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm đưa đất nước phát triển; mở rộng thị trường, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để đầu tư phát triển sản xuất trong nước, mở rộng quy mô nền kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tạo việc làm và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, làm tiền đề bảo đảm vững chắc quyền độc lập dân tộc.
Về chính trị: HNQT tạo cơ hội để Việt Nam hội nhập và thiết lập quan hệ với các nước trên thế giới thông qua ngoại giao song phương và đa phương, qua đó tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Việt Nam có cơ hội để khẳng định tính ưu việt của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên trường quốc tế, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước. HNQT còn tạo điều kiện cho việc tiếp cận, nghiên cứu các mô hình chính trị - xã hội trên thế giới để từ đó rút ra những kinh nghiệm quản lý xã hội, đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp và không ngừng hoàn thiện tổ chức bộ máy nhằm tăng khả năng bảo vệ quyền độc lập dân tộc.
Về văn hóa - xã hội: HNQT giúp Việt Nam tiếp nhận được những tri thức mới, những trào lưu văn hóa mới, từ đó có thêm điều kiện để nâng cao trình độ dân trí. Tạo cơ hội để Việt Nam phát huy và quảng bá những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với bạn bè quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại trong xây dựng con người mới để phát triển đất nước. HNQT đã và đang mang lại những thay đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống hằng ngày của con người Việt Nam; mở ra khả năng hợp tác và phối hợp với cộng đồng quốc tế trong giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu.
2. Những thách thức của hội nhập quốc tế tác động đến sự nghiệp bảo vệ quyền độc lập dân tộc
Về kinh tế: HNQT tạo nên cuộc cạnh tranh cam go và phức tạp giữa các nước trong bối cảnh các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ và chi phối nền kinh tế toàn cầu. Hai thách thức lớn nhất về kinh tế của các nước hiện nay là: “Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế”3. HNQT khiến cho sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trở nên quyết liệt hơn, tạo sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta.
Mặt khác, những yếu tố về điều kiện thị trường, thuế, khoa học công nghệ được hình thành đã đặt ra những vấn đề mới về phạm vi và mức độ can thiệp của Nhà nước trong giải quyết các đòi hỏi bức thiết của thị trường. HNQT làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, làm cho nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái mất cân đối, mất tính độc lập, tự chủ, dẫn đến nguy cơ đối với sự nghiệp bảo vệ quyền độc lập dân tộc.
Về chính trị: Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng HNQT thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tạo mâu thuẫn xã hội, gây nên các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, chạy chức chạy quyền… đe dọa đến tình hình an ninh chính trị của đất nước. Sự can thiệp của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và khu vực, sự chi phối, vận động và gây sức ép của các tổ chức phi chính phủ nhằm tạo áp lực làm giảm vai trò của Nhà nước, gây bất ổn về mặt chính trị - xã hội.
Về văn hóa - xã hội: HNQT khiến cho những tư tưởng văn hóa độc hại, phản giá trị ở bên ngoài dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng giá trị, bản sắc văn hóa của dân tộcViệt Nam; làm nảy sinh tư tưởng thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất; làm xuất hiện xu hướng thương mại hóa mọi thứ để trục lợi, bao gồm cả các sản phẩm văn hóa tinh thần. Nguy cơ phân hóa xã hội và các hiện tượng bất công xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng, xung đột giữa các tầng lớp nhân dân; đẩy các mối quan hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của CNXH.
3. Bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Bảo vệ quyền độc lập dân tộc trong bối cảnh HNQTphải được nhận thức và thực hiện trên cả hai phương diện là bảo vệ quyền tự định đoạt các vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc và bảo vệ quyền bình đẳng của đất nước trong hoạt động quốc tế.
Một là, xác định quyền độc lập của dân tộc “không chỉ thuần túy là tính bất khả xâm phạm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, khoảng không và môi trường tự nhiên, chủ quyền trong lĩnh vực văn hóa, mà còn là sự an toàn và không bị đe dọa đối với chế độ chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng và định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, cũng như đối với quyền được duy trì, bảo vệ những lợi ích chính đáng của công dân”4. Vì vậy, cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố quyết định bảo đảm quyền độc lập dân tộc.
Để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó, cần: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”5. Đổi mới hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng theo hướng tinh gọn, đồng bộ và hiệu quả từ phương thức hoạt động cho đến cơ chế vận hành. Đặc biệt, “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;… gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm”6.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa HNQT với sự nghiệp bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc. Cần “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc”7. Kiên quyết xóa bỏ những tư tưởng, quan điểm phiến diện khi cho rằng việc tham gia vào quá trình HNQT sẽ làm mất đi quyền độc lập của dân tộc; làm rõ những nội dung, biểu hiện mới của quyền độc lập dân tộc trong HNQT.
Ba là, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, mang tính quyết định trong bảo vệ quyền độc lập dân tộc. Việc hoạch định và thực hiện đường lối phát triển đất nước trên các mặt cần tỉnh táo, linh hoạt và sáng tạo, phải luôn xác định sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng, hỗ trợ. Tuyệt đối không chủ quan duy ý chí, chỉ coi trọng sức mạnh dân tộc và xem nhẹ sức mạnh thời đại mà phải kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tinh thần mà Đảng đã đề ra: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”8.
Bốn là, có những biện pháp cụ thể, tận dụng thời cơ để phát triển kinh tế đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc. Đảng ta xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ”9. Ưu tiên hàng đầu là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tập trung “Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững;… Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”10; chú trọng phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là những yêu cầu tất yếu nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta không đi chệch hướng. Tham khảo cách làm kinh tế của các nước trên thế giới nhưng tuyệt đối không rập khuôn, máy móc; phải xây dựng và phát triển một nền kinh tế đủ mạnh, quan tâm phát triển một số ngành kinh tế chủ chốt; đầu tư phát triển các tiền đề về khoa học - kỹ thuật nhằm tạo sức mạnh nội sinh cho phát triển kinh tế đất nước trên tinh thần độc lập, tự chủ.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và đầy đủ quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại; từng bước hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.
Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tháng 11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn lời các tiền nhân “Văn hóa là bản sắc của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”. Chính vì vậy, cần tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong xây dựng và phát triển văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ quyền độc lập, tự do dân tộc. Tiếp tục “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”11. Cần quan tâm tạo mọi điều kiện để ra sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển con người Việt Nam một cách toàn diện, nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”12. Do đó, cần chủ động mở rộng giao lưu văn hóa với thế giới để tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, từng bước khắc phục những hạn chế của người Việt Nam; đồng thời tăng cường quảng bá những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam ra thế giới.
Sáu là, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh để chống lại âm mưu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc. Cần quan tâm, đầu tư thiết thực cả về vật chất và tinh thần; xây dựng và phát triển quốc phòng, an ninh trên tinh thần tự chủ và xuất phát từ thực tiễn đất nước; đầu tư tài chính, mua sắm trang thiết bị quốc phòng, an ninh tiên tiến, hiện đại; không ngừng phát triển lực lượng Quân đội và Công an vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, chú trọng tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng; quan tâm hơn nữa việc xây dựng và tổ chức lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ làm cơ sở vững chắc cho lực lượng vũ trang chính quy. Đảng ta khẳng định: “tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”13.
Sáu là, có chiến lược ngoại giao tích cực, chủ động, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập của dân tộc. Thực hiện chiến lược ngoại giao với phương châm: “tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”14; “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Nâng cao năng lực hội nhập,... Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tăng cường ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hóa, đóng góp thiết thực vào quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước”15.
Giải quyết các vấn đề chủ quyền, biên giới, lãnh thổ trên cơ sở thương lượng hòa bình, phù hợp với luật pháp của quốc tế; kết hợp sử dụng các biện pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng… nhằm tạo sức mạnh tổng hợp cho ngoại giao Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc.
Đảng và Nhà nước đã xác định: “Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”16.
Đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong bảo vệ quyền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, để cũng cố và bảo vệ quyền độc lập của dân tộc trong bối cảnh HNQT ngày càng sâu rộng, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, sáng suốt và linh hoạt trong việc đề ra và thực hiện một cách đồng bộ những giải pháp trên tất cả các khía cạnh. Trong quá trình đó, phải luôn quán triệt nguyên tắc độc lập dân tộc là yếu tố bất biến và luôn là ưu tiên hàng đầu để đưa đất nước vững bước đi trên con đường CNXH.
1. Xem: Hướng dẫn chi tiết chuyên đề Hội nhập quốc tế, ban hành kèm theo Hướng dẫn số 42-HD/BTGTW ngày 01/9/2017 của Ban Tuyên giáo Trung ương.
2. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
3. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên): Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 429.
4. Nguyễn Hoàng Giáp: Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8/2011, tr. 4.
5, 7, 11, 12, 13, 15. Đảng Cộng sản VIệt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 40, 47, 46, 115-116, 48, 49-50.
6, 14, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 202, 35, 154-155.
8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 66, 75, 188-189.
ThS. ĐINH THỊ HƯƠNG TH