Xây dựng Đảng về chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam

CT&PT - Bài viết tập trung phân tích công tác xây dựng Đảng về chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một số nội dung chủ yếu: xác định nền tảng tư tưởng chính trị; xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và của mỗi đảng viên; thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Qua đó khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng Đảng về chính trị trong sự thống nhất hữu cơ với xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức, đạo đức, cán bộ, gắn với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

CT&PT - Bài viết tập trung phân tích công tác xây dựng Đảng về chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một số nội dung chủ yếu: xác định nền tảng tư tưởng chính trị; xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và của mỗi đảng viên; thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Qua đó khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng Đảng về chính trị trong sự thống nhất hữu cơ với xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức, đạo đức, cán bộ, gắn với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức, v.v. để Đảng xứng đáng là người lãnh đạo, đày tớ trung thành của nhân dân Việt Nam. Xây dựng Đảng về chính trị là một trong những nội dung cơ bản, cốt lõi của một đảng cộng sản chân chính, quyết định mục tiêu, đường lối chính trị, cương lĩnh chính trị của Đảng. Xây dựng Đảng về chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm những nội dung cơ bản, cốt lõi sau:

Một là, xác định nền tảng tư tưởng chính trị đúng đắn

Ngay từ khi mới thành lập (năm 1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định nhất quán quan điểm lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), Đảng ta bổ sung thêm tư tưởng Hồ Chí Minh vào vị trí nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”1, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Việc “Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”2. Bởi lẽ, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc, không chỉ phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà còn phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đây là bước phát triển trong xây dựng Đảng về chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đã xác định nền tảng tư tưởng vững chắc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kiên định những giá trị bền vững, những nguyên lý cơ bản, mục tiêu giải phóng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với chủ nghĩa Mác - Lênin là kiên định những giá trị bền vững: đây là một học thuyết phát triển; chủ nghĩa nhân văn vì con người; phương pháp biện chứng duy vật; quan niệm duy vật về lịch sử; học thuyết hình thái kinh tế - xã hội; học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; học thuyết về chủ nghĩa xã hội. Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh là kiên định tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về nhân dân và đoàn kết dân tộc; phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về xây dựng lực lượng vũ trang; xây dựng Đảng và đạo đức cách mạng; về chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ; v.v.. Kiên định khác với bảo thủ, trì trệ, đó là cơ sở, nền tảng, điều kiện để vận dụng, phát triển sáng tạo và ngược lại, vận dụng, phát triển sáng tạo, khoa học sẽ góp phần củng cố niềm tin, lập trường và sự kiên định. Nếu không kiên định thì tư tưởng dễ hoang mang, dao động, chệch hướng, vận dụng, phát triển không có nguyên tắc, không khoa học, rơi vào chủ nghĩa xét lại sẽ dẫn tới sai lầm, thất bại.

Hai là, xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị đúng đắn

Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đường lối chính trị đúng đắn phải là cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị khoa học, cách mạng, nhân văn, thực tiễn vì mục tiêu giải phóng nhân dân lao động; xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, xu thế phát triển của thế giới; phản ánh được khát vọng, mục tiêu, lợi ích của quốc gia - dân tộc, vừa cơ bản trước mắt, vừa có tính chiến lược, lâu dài. Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”3. Phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bởi lẽ, nếu không đem lại độc lập cho dân tộc thì không có cơ sở, điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong quá trình xây dựng Đảng về chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng Cương lĩnh chính trị của mình. Vì chỉ khi có cương lĩnh chính trị đúng đắn thì mới có đường lối đúng đắn. Trước tình hình cải tổ của Liên Xô vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX có những biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991). Điều này cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận ra tầm quan trọng của việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, tránh rơi vào rập khuôn, giáo điều. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam gồm sáu đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội4. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã có những bổ sung, phát triển về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”5. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội; đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại... đúng đắn. Nhờ đó, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Ba là, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng

Cùng với xây dựng nền tảng tư tưởng chính trị, xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng quan tâm, chú trọng xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đồng thời kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”6. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, qua các kỳ đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên trì mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc đổi mới đòi hỏi phải huy động sự tham gia của tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những công nhân ưu tú, mà còn kết nạp những người ưu tú từ các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động khác. Diễn đạt như vậy hoàn toàn không phải hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng để chuyển sang quan điểm “đảng toàn dân”, mà là để hiểu bản chất giai cấp công nhân của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, bởi lẽ, lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích của dân tộc. Cách diễn đạt đó góp phần làm rõ hơn trách nhiệm của một Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền nhà nước và xã hội, phản ánh sự thống nhất về lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, đó là: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; tập trung dân chủ; gắn bó mật thiết với nhân dân; tự phê bình và phê bình; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng; kỷ luật nghiêm minh, tự giác; đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung. Thực tế hoạt động của các đảng cộng sản và công nhân cho thấy, bất kỳ đảng nào xa rời các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đảng kiểu mới, đảng đó sẽ thất bại. Hơn 90 năm qua, đặc biệt là qua 35 năm đổi mới, nhờ kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, Ðảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ được bản chất giai cấp công nhân, trong sạch, vững mạnh, giữ vững được vai trò lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

Bốn là, nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và của mỗi đảng viên

Bản lĩnh chính trị của người đảng viên là khả năng, ý chí, nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách để kiên định quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; kiên định mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để rèn luyện bản lĩnh chính trị, người đảng viên phải tự giác học tập, trau dồi, rèn luyện; học tập qua giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội và qua thực tiễn hoạt động chính trị; rèn luyện văn hóa chính trị; v.v.. Mỗi đảng viên có bản lĩnh chính trị thì toàn Đảng mới có bản lĩnh chính trị vững vàng và ngược lại, khi toàn Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng thì mỗi đảng viên mới có cơ sở để trau dồi bản lĩnh chính trị của bản thân. Chính vì vậy, hơn 90 năm qua, kể từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và mỗi đảng viên.

Năm là, thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến thực hành dân chủ trong Đảng gắn với tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Từ phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đến bài học “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; từ chủ trương “phải trưng cầu ý kiến nhân dân trước khi quyết định” đến phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; từ chủ trương xây dựng bầu không khí dân chủ trong xã hội đến chủ trương tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu, triệt để chống tham nhũng, chống đặc quyền đặc lợi... đều thể hiện tinh thần dân chủ của Đảng. Bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hành dân chủ trong công tác lý luận, trong xây dựng chủ trương, đường lối của mình. Những nhận định, kết luận và quyết định của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI về đường lối đổi mới là kết quả của việc phát huy dân chủ trong nhân dân, của các địa phương và đơn vị cơ sở cùng với những cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, khảo sát thực tế của Trung ương Đảng và Chính phủ để đưa ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, có tính chất đột phá, làm xoay chuyển tình hình và thay đổi diện mạo của đất nước.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhận thức và thực hành dân chủ trong công tác lý luận và xây dựng chủ trương, đường lối; thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học; dân chủ trong công tác cán bộ; bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội...

Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng”7 và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm; phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng đồng thời với giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng; từng bước cụ thể hóa và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.

Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng yêu cầu: “tiếp tục đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng, bảo đảm tăng cường đoàn kết, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng”8.

Về dân chủ trong công tác lý luận, Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 khẳng định: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, phát huy dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác lý luận. Xây dựng không khí dân chủ, cởi mở và có nguyên tắc trong thảo luận, tranh luận khoa học. Thu hút đội ngũ cán bộ lý luận và các cơ quan nghiên cứu tham gia vào quá trình hoạch định đường lối, chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”9.

Về dân chủ trong công tác cán bộ, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay nhấn mạnh: “Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi”10.

Về phát huy dân chủ trong xây dựng Đảng, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013; bổ sung phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”11; “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội,…”12. Thực hiện tốt những nội dung này cũng là thực hiện tốt dân chủ trong Đảng.

Như vậy, có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng Đảng về chính trị trong sự thống nhất hữu cơ với xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức, đạo đức, cán bộ, gắn với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Chính vì công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác xây dựng Đảng về chính trị nói riêng được quan tâm mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân Việt Nam.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 127.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84.

3, 7, 11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 180, 181, 173, 173-174.

4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 10-11.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 70.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 130.

8. Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

9. Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-37-nqtw-ngay-9102014-cua-bo-chinh-tri-ve-cong-tac-ly-luan-va-dinh-huong-nghien-cuu-den-nam-2030-192.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 34.

GS, TS. TRẦN VĂN PHÒNG

Nguyên Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

ThS. NGUYỄN THỊ BẮC

Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin