1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống vô cùng quý báu, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, trở thành nguồn động lực to lớn đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tồn tại và phát triển.
Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, với nhãn quan chính trị sắc bén, tinh thần nhân văn cao cả, trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng xây dựng, hoàn thiện hệ thống quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng và các tầng lớp nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người, được cụ thể hóa qua các cụm từ: “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt khác nhau, song nội hàm của các khái niệm đều thống nhất nội dung lực lượng của khối đại đoàn kết là toàn thể nhân dân Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới tính, mọi lứa tuổi, mọi vùng miền của đất nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc, trên cơ sở thống nhất về mục tiêu và những lợi ích căn bản.
Nói về vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”1; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”2.
Đại đoàn kết toàn dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là phương pháp tổ chức, tập hợp lực lượng, mà còn là một bộ phận hữu cơ, tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng. Có thể nói, đoàn kết dân tộc vừa là điều kiện tiên quyết, vừa là tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng tới và đạt được.
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của ông cha: “Nước lấy dân làm gốc”, đồng thời thấm nhuần nguyên lý mácxít “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm ra sức mạnh của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước chính là lực lượng vô địch của nhân dân: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”3. Theo Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường, lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”4.
Theo Hồ Chí Minh, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân dân lao động, mà trước hết là nông dân, công nhân. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”5, “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí, cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”6. Không chỉ xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định giữ gìn sự đoàn kết là nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”7.
Để thực hiện đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”8.
Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng. Theo Người, công tác tuyên truyền là nghệ thuật cách mạng, do vậy, các tổ chức và cán bộ phải không ngừng tìm tòi, lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp để truyền tải đường lối của Đảng một cách sâu rộng tới nhân dân. Trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, cần đặc biệt giải quyết hai mối quan hệ có tính chất nền tảng, quyết định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đó là: quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và quan hệ giữa các tôn giáo. Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”9. Người chỉ rõ: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo”10. Tư tưởng đó là “linh hồn” trong các chính sách dân tộc của Nhà nước ta. Các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào theo đạo từng bước thể hiện tư tưởng, tinh thần đó và mang lại sự thay đổi rõ rệt.
Lịch sử dựng nước và giữ nước là minh chứng khẳng định sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết, ý thức độc lập, tự chủ của nhân dân Việt Nam. Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh để toàn Đảng, toàn dân ta vượt lên mọi gian khổ, hy sinh trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2. Nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay
Hiện nay, lợi dụng tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo, các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng nước ta. Với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc, chúng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, gia tăng các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các thế lực thù địch, phản động vu cáo, xuyên tạc tình hình dân tộc, tôn giáo, kích động đồng bào chống đối chính quyền. Trong thời gian qua, lợi dụng các vấn đề về lịch sử đất đai và những thiếu sót của một bộ phận cán bộ chính quyền ở cơ sở trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, các thế lực thù địch, phản động đã kích động, xúi giục, lôi kéo đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo tập trung đông người, gây bạo loạn. Chúng thường xuyên truyền bá tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc; kích động tư tưởng ly khai; tìm cách móc nối, mua chuộc những người có uy tín trong cộng đồng các tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số; tài trợ cho sư sãi, tăng sinh ra nước ngoài du học với ý đồ chống phá nước ta lâu dài. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động còn thổi phồng, khuếch đại các vấn đề “nhạy cảm” trong xã hội; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là chính sách về dân tộc, tôn giáo, nhằm tạo dư luận xấu, kích động nhân dân. Lợi dụng tình hình đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung, thông qua các hoạt động tôn giáo, chúng tuyên truyền, phổ biến các tà đạo, đạo lạ, gây mất ổn định chính trị, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, hòng tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp, tiến tới đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Các công cụ, phương tiện mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam rất đa dạng. Chúng thành lập nhiều hội nhóm ở trong nước và nước ngoài hòng chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thông qua các diễn đàn trên các trang mạng xã hội, website, blog…, đăng tải các bài viết, hình ảnh, video với nội dung xuyên tạc, tính chất “đánh lận con đen” nhằm gây chia rẽ nội bộ, sự đồng thuận xã hội và tình cảm giữa các dân tộc. Một số diễn đàn đăng tải các bài viết xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động còn lợi dụng triệt để các phương tiện truyền thông xã hội để phát tán tài liệu phản động, các ấn phẩm đồi trụy, tung tin thất thiệt, sai lệch về đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Từ đó, tiến tới phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết vùng miền, đoàn kết lương giáo, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đoàn kết quân - dân, đoàn kết Đảng với nhân dân...
3. Thực trạng và một số giải pháp phòng, chống âm mưu, thủ đoạn nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta
Thực trạng phòng, chống âm mưu, thủ đoạn nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta
Trước tình hình trên, để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động nhằm phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đúc kết một trong những bài học lớn của cách mạng Việt Nam là: “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta”11. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu chủ động nắm bắt tình hình tại các địa bàn, xác định đối tượng trọng điểm về dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản động lưu vong, các tổ chức quốc tế có hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, dân tộc ta về dân tộc, tôn giáo. Đồng thời, các cơ quan chức năng đã tham mưu cho cấp ủy đảng và chính quyền các cấp chủ động giải quyết từ cơ sở các vụ việc nhạy cảm, phức tạp liên quan tới vấn đề dân tộc, tôn giáo; đồng thời triển khai các phương án đấu tranh, xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng quyền của người dân tộc thiểu số để gây rối trật tự. Bên cạnh đó, tích cực tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta; kịp thời truyền tải rộng rãi đến nhân dân những thành tựu đạt được trong việc bảo vệ, phát huy quyền của nhân dân; nhận diện và phản bác kịp thời các thông tin xuyên tạc, sai lệch liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo trong các tầng lớp nhân dân, cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài. Đặc biệt, việc nước ta bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ngày 04/7/2019 tại Geneva (Thụy Sĩ) là minh chứng rõ nét khẳng định những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về vấn đề dân tộc, tôn giáo ở nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc, tôn giáo ở một số nơi vẫn còn một số hạn chế nhất định, chưa được thực hiện thường xuyên và chưa có nhiều cách làm sáng tạo. Hoạt động tham mưu, phối hợp của một số đơn vị với cấp ủy, chính quyền các cấp trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở chưa đạt hiệu quả cao; kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp nắm bắt, xử lý và đấu tranh ngăn chặn hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch, phản động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số cơ quan, đơn vị có lúc, có nơi chưa kịp thời…
Một số giải pháp phòng, chống âm mưu, thủ đoạn nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta trong thời gian tới
Một là, tích cực tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào theo đạo về tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh, nhận diện âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch, phản động. Trên cơ sở giáo dục truyền thống đoàn kết, yêu nước, góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác, trách nhiệm công dân, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy ý chí tự lực, tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống tư tưởng hẹp hòi, cục bộ, ly khai. Chỉ khi hiểu đúng bản chất vấn đề, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, chúng ta mới có thể chủ động, kịp thời phát hiện, phòng ngừa và đấu tranh hiệu quả với những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan.
Hai là, không ngừng xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; kết hợp giữa huy động sức dân với bồi dưỡng sức dân, phát huy dân chủ gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân; thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết khó khăn, vướng mắc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, lợi ích của nhân dân như: việc làm, đất đai, môi trường…
Ba là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc, đồng bào theo đạo. Theo đó, tăng cường rà soát, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện những chính sách đã có, đồng thời nghiên cứu ban hành những chính sách mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng nông thôn mới, định canh, định cư, tạo việc làm cho lao động tại chỗ; hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo… Qua đó, tăng cường sự đồng thuận của đồng bào các dân tộc, giữa những người theo tín ngưỡng, tôn giáo và những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Bốn là, tích cực đổi mới công tác dân vận, tìm ra những cách thức cụ thể, thiết thực, hiệu quả hơn nữa trong tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giúp địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới, phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, nâng cao dân trí; phòng, chống dịch bệnh; phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn.
Cấp ủy, chính quyền cơ sở cần thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, kỷ luật cho lực lượng trực tiếp làm công tác dân vận, tôn giáo. Nội dung thực hiện phải bảo đảm toàn diện, chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc, tôn giáo và công tác dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; nâng cao kiến thức về kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm văn hóa và tâm lý tộc người, đặc điểm sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo; quan tâm bồi dưỡng, phát triển đảng viên, đoàn viên, tạo nguồn cán bộ cho địa phương là người dân tộc thiểu số, có tôn giáo làm nòng cốt trong công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo.
Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội”12. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước cũng như trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải “làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”, thể hiện trong các hoạt động thực tiễn như: đẩy mạnh thực hiện các phong trào, cuộc vận động, biểu dương kịp thời những tấm gương điển hình tiên tiến, “gương người tốt, việc tốt”; động viên và phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh những hành vi chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị - xã hội. Kiên trì thuyết phục, vận động những người từng “lầm đường, lạc lối” trở về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình đẳng đối với những người biết ăn năn, hối cải, phục thiện. Thực hiện tốt công tác quản lý xã hội, nắm chắc tình hình, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng; luôn gần gũi, sát dân, nắm rõ tâm tư, nguyện vọng của đồng bào và những vấn đề xảy ra trên địa bàn để từ đó có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả, ngăn chặn kẻ xấu lợi dụng.
Sáu là, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá của các thế lực thù địch: thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thường xuyên vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; vận động nhân dân tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không tin, không nghe theo kẻ xấu. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, lôi kéo đồng bào tụ tập, biểu tình gây bạo loạn. Khi xuất hiện “điểm nóng”, cần tìm hiểu rõ nguyên nhân, có biện pháp giải quyết kịp thời, không để lan rộng, không để kẻ thù lợi dụng xuyên tạc, kích động, chống phá; xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với những kẻ cầm đầu ngoan cố chống phá.
Bài đăng trên Tạp chí Chính trị và Phát triển, số 2 năm 2024
Ngày nhận: 27/02/2024; Ngày phản biện: 07/3/2024; Ngày duyệt đăng: 11/3/2024
1, 9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 9, tr. 177; t. 4, tr. 249.
2, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 119, 454.
3, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453, 376.
4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 244.
7, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, t. 51, tr. 65-66.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 172.
TS. NGUYỄN THỊ THU TRANG
Học viện An ninh nhân dân