1. Vài nét khái quát về tự phê bình và phê bình trong Đảng
Vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản là lãnh đạo sự nghiệp Cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động giao phó. Đảng phải thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Bởi, tự phê bình và phê bình là quy luật về sự phát triển của Đảng chân chính, cách mạng.
Mác - Ăngghen cho rằng tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của Đảng Cộng sản, việc Đảng phê bình hoạt động đã qua là rất cần thiết và bằng cách đó Đảng hoạt động tốt hơn. Theo Lênin, nếu đội ngủ đảng viên của Đảng xem nhẹ, không thường xuyên nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, nếu sa vào tự cao, tự đại, không thấy những sai lầm, khuyết điểm của mình, giấu diếm những sai lầm, khuyết điểm, Đảng sẽ suy yếu, gặp khó khăn, thậm trí tan rã. Vì vậy, Lênin coi “tự phê bình là một việc tuyệt đối cần thiết cho hết thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống. Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn”1 và Lênin nhấn mạnh: “tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho đến nay, đều bị tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình và vì sợ sệt không giám nói lên những nhược điểm của mình”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta, Người luôn coi trọng tự phê bình và phê bình trong đảng và khẳng định: “Về luật phát triển, Đảng Lao động Việt Nam dùng lối phê bình và tự phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng”3. Vì vậy, Người căn dặn đảng phải giáo dục cán bộ, đảng viên đối với mình phải thật thà công khai thừa nhận; đối với đồng chí thì phải kiên quyết đấu tranh thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm để cùng nhau sửa chữa, cùng nhau tiến bộ. Cán bộ, đảng viên phải coi trọng và thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình. Và, Người coi đây là khâu đột phá trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng. Nhờ đó, Đảng ta luôn giữ vững vai trò lãnh đạo và làm tròn trách nhiệm lãnh đạo đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Theo Người, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong một giai đoạn cách mạng, khi cách mạng chuyển giai đoạn thực hiện nhiệm vụ mới, trong điều kiện, hoàn cảnh mới Đảng phải chỉnh đốn, tự kiểm điểm, tự phê bình đúc rút bài học kinh nghiệm để thực hiện nhiệm vụ mới trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện tự phê bình và phê bình qua các thời kỳ lịch sử
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong Đảng, Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng luôn coi trọng, thực hiện thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trong đảng, và mở các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng như: tại Đại hội lần thứ nhất năm 1935 chỉ sau 5 năm thành lập, Đảng đã phát động và mở rộng cuộc tự chỉ trích Bôn sê vich trong các cấp đảng bộ để nghiên cứu, học tập các ưu điểm, tìm ra các khuyết điểm mà tránh; Năm 1951, Đảng mở cuộc “vận động chấn chỉnh đảng” nhằm mục đích nâng cao trình độ tư tưởng, ý thức công tác của cán bộ và đảng viên; ngày 25/2/1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “về cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân” thông qua tự phê bình và phê bình để củng cố đoàn kết thống nhất trong Đảng, phát huy dân chủ trong đảng; bước vào thời kỳ lãnh đạo công cuộc đổi mới, tại Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm khắc, tự kiểm điểm và phê bình những sai lầm, khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa. Đây là khâu đột phá để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo. Đại hội tiếp tục khẳng định, phải coi trọng việc thực hiện tự phê bình và phê bình, nhằm thúc đẩy sự phát triển của Đảng. Qua 10 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới với những thành tựu đã đạt dược, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn vai trò của tự phê bình và phê bình trong điều kiện mới, thực hiện nhiệm vụ mới. Và coi đó là “một quy luật cơ bản trong phát triển, tiến bộ của Đảng là thường xuyên tự phê bình và phê bình”4.
Thực hiện chương trình, kế hoạch hành động, tại Hội nghị lần thứ 6 (lần hai) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã quyết định tiến hành “cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng”. Trong đó, chọn tự phê bình và phê bình là khâu đột phá và thực hiện nghiêm túc từ Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đến cơ sở là khâu đột phá và là biện pháp quan trọng bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nhằm lập thành tích thiết thực chào mừng kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 70 năm thành lập Đảng, Cuộc vận động đã tạo bước chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố tăng cường niềm tin, sự tin tưởng của Đảng vào sự nghiệp đổi mới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, đã thảo luận và thống nhất cao việc ban hành nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã góp phần “siết lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, tạo được chuyển biến tích cực bước đầu trong việc ngăn chặn một số mặt tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng”5. Tuy nhiên, Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI vẫn còn một số mục tiêu chưa đạt như việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng, vẫn còn tình trạng: “nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình được giao phụ trách”6. Chính vì vậy, Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng”. Nghị quyết đã cụ thể hóa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là căn cứ, cơ sở để cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng theo đó thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn và đẩy lùi “một bộ phận không nhỏ” là nguy cơ đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra nhiệm vụ, giải pháp nhằm quán triệt và thực hiện nghiêm, có hiệu quả, mục tiêu mà Nghị quyết đã đề ra. Trong đó, Nghị quyết khẳng định, toàn đảng, nhất là các cấp ủy đảng phải: tiếp tục đổi mới nộ dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, giám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng. Và, thực sự là khâu đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn đảng. Kết luận 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ, sau 5 năm Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng “đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, thực sự đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”.
3. Một số điểm cần lưu ý trong thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng, giai đoạn hiện nay
Thực tiễn qua 92 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với Nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Có được những thành quả này là do Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, trong đó coi vấn đề tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là phương thức quan trọng trong lãnh đạo, cầm quyền.
Tuy nhiên, công tác tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở đảng trên thực tế hiện nay còn nhiều bất cập, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đánh giá: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp”7 … “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao”8. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, thoái hóa phẩm chất, đạo đức, lối sống; nhiều cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về tự phê bình và phê bình; tính chiến đấu kém, còn biểu hiện ngại va chạm, né tránh, cơ hội hữu khuynh trong tự phê bình và phê bình.
Cá biệt một số cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền lực, địa vị, dẫn đến tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm và ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ở các tổ chức đảng. Nghị quyết đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu”9. Vì vậy, để phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế nêu trên, trong thời gian tới tổ chức đảng, đảng viên cần chú trọng một số điểm như sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình.
Trong sinh hoạt của mỗi tổ chức, cần thường xuyên nâng cao ý thức tự phê bình và phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, đồng thời kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị, trong cộng đồng để tạo uy tín, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ. Trong sinh hoạt Đảng, cần phải “khéo” sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình; khi tiến hành tự phê bình và phê bình là phê bình việc chứ không phải phê bình người, giúp cho đồng chí mình nhận ra những sai lầm, khuyết điểm để có biện pháp tích cực sửa chữa.
Hai là, tự phê bình và phê bình cần thực hiện thường xuyên, liên tục.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác tự phê bình và phê bình cần thực hiện thường xuyên, nghiêm chỉnh, sau mỗi công việc, sau mỗi ngày làm việc, mỗi người cần nghiêm túc rút kinh nghiệm để thấy rõ những lỗi lầm mắc phải, từ đó tránh lặp lại trong những công việc về sau. Bởi, tự phê bình và phê bình là nhằm vào công việc, tức kết quả cuối cùng sau khi hoàn thành công việc và thái độ thực hiện công việc, nên nếu sau khi hoàn thành nhiệm vụ không nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm, chỉ rõ ưu, khuyết điểm thì sẽ khó tránh khỏi chủ quan, kiêu ngạo, hoặc lặp lại sai lầm trong công tác về sau, cũng như không nhân rộng, phát huy được những ưu điểm, từ đó bỏ sót những nhân tố có ích cho phong trào chung.
Ba là, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là những người gương mẫu, đi đầu trong tự phê bình và phê bình.
Cần quán triệt chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải làm gương trước”, gắn với việc thực hiện tốt Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Trong sinh hoạt chi bộ, cấp ủy phải có thái độ nghiêm túc kiểm điểm đánh giá đúng ưu điểm, nhược điểm của các cấp ủy viên, các đảng viên, nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt để kịp thời sửa chữa sai sót, yếu kém đồng thời làm gương về tự phê bình và phê bình, đặc biệt là “nói phải đi đôi với làm” - nghĩa là nghiêm túc sửa chữa ngay sau khi thực hiện tự phê bình và phê bình.
Bốn là, đổi mới nội dung và hình thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên.
Nội dung và hình thức trong thực hiện tự phê bình và phê bình phải phong phú, phù hợp, cụ thể, sát thực đối với đời sống hàng ngày cũng như trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên. Trong tự phê bình và phê bình về việc làm của cá nhân, cần tập trung chú trọng đánh giá về việc làm trên những nội dung cụ thể, như kế hoạch thực hiện, biện pháp cụ thể, quyết tâm khắc phục khó khăn, trở ngại để hoàn thành công việc. Từ đó, giúp mỗi người luôn ý thức được trách nhiệm bản thân, tạo nên sự đồng thuận, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tổ chức, đơn vị, địa phương hướng tới thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Năm là, phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong nâng cao hiệu quả tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung, trong phê bình tổ chức đảng và chính quyền các cấp nói riêng. Vì vậy, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là nhân dân tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị trong giám sát, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên với các hình thức phù hợp. Những ý kiến đóng góp của các tổ chức quần chúng, tầng lớp nhân dân đối với các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần được tập hợp đầy đủ và tiếp thu nghiêm túc. Thông qua đó, kịp thời phát hiện sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, của cấp ủy, góp phần phòng và chống các biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, quan liêu, tham ô, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng; ngăn chặn nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.10, tr.395-396.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.45, tr.141.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.174.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.49.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.182.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 184.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.91.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.179.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr .91-92.
ThS. NGUYỄN LAN ANH
Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ