Thực hiện chính sách giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước

CT&PT - Ở nước ta, đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa - nơi điều kiện sống còn nhiều khó khăn và tỷ lệ hộ nghèo vẫn ở mức cao so với mặt bằng chung cả nước. Chính vì vậy, việc ưu tiên triển khai các chính sách hỗ trợ giảm nghèo dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số luôn là nhiệm vụ được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Tỉnh Bình Phước với đặc thù là địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã chủ động xây dựng và thực hiện nhiều chương trình, dự án thiết thực nhằm từng bước cải thiện đời sống người dân, hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững. Bài viết tập trung làm rõ quá trình triển khai chính sách giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Bình Phước; đồng thời đánh giá những kết quả nổi bật, chỉ ra các hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong giai đoạn tiếp theo.

Chính sách giảm nghèo giữ vị trí chiến lược trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tôn vinh giá trị nhân văn sâu sắc trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, đồng thời nhấn mạnh việc bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống, tăng thu nhập cho người dân, nhất là ở các vùng khó khăn, tạo điều kiện để hộ nghèo tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản. Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống, nhưng đồng bào dân tộc thiểu số phần lớn cư trú ở vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế - xã hội hạn chế, dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo vẫn cao hơn so với mặt bằng chung. Vì vậy, việc đẩy mạnh các chính sách giảm nghèo dành cho đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ trọng tâm cần được các cấp, các ngành, đặc biệt là chính quyền địa phương tích cực triển khai.

Bình Phước là một tỉnh miền núi thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích tự nhiên là 6.876,76 km2; phía Đông giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai; phía Bắc giáp tỉnh Đắk Nông và tỉnh Lâm Đồng; phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và có đường biên giới dài 258,939 km với Vương quốc Campuchia. Dân số toàn tỉnh 1.049.394 người với 41 thành phần dân tộc, có 206.000 người DTTS1.

Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa vẫn còn khó khăn, xuất phát từ nền kinh tế - xã hội chưa phát triển. Hình thức canh tác của bà con còn mang tính manh mún, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên; khả năng đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo còn hạn chế, nên đời sống lâu dài vẫn chưa được cải thiện. Một số hộ thiếu đất sản xuất theo quy định (0,5 ha/hộ), nhà cửa tạm bợ, thiếu nước sinh hoạt, thu nhập thấp, rất cần sự hỗ trợ từ Nhà nước và cộng đồng.

Trong thời gian qua, tỉnh Bình Phước đặc biệt quan tâm, chú trọng đến việc thực hiện chính sách giảm nghèo, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Hàng loạt chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số đã được thực hiện, nhiều mô hình sáng tạo, hiệu quả đã ghi dấu ấn tích cực trong công tác giảm nghèo. Tuy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn một số vướng mắc, đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện chính sách và biện pháp để nâng cao hiệu quả hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững.

1. Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Các chính sách giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước được chính quyền tỉnh thực hiện trong thời gian qua gồm: (1) Chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm; (2) Chính sách hỗ trợ tiếp cận y tế, thông qua hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; (3) Chính sách tín dụng đối với đồng bào dân tộc thiểu số; (4) Chính sách hỗ trợ tiếp cận giáo dục cho con em đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh.

Thành tựu đạt được

Thứ nhất, chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm.

Trong giai đoạn 2020 - 2024, tỉnh Bình Phước đã tạo việc làm cho 209.934 lao động, vượt 14.934 chỉ tiêu so với kế hoạch (195.000 người), đạt 107,7% mục tiêu đề ra; trong đó có 28.961 đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với đó, 977 lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bao gồm 82 người dân tộc thiểu số, góp phần đa dạng hóa kênh thu nhập cho người dân. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị luôn được duy trì dưới 3% và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn duy trì trên 90%, hoàn thành 100% kế hoạch ổn định lao động. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 67%, trong khi tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 37% so với chỉ tiêu 42%. Riêng năm 2024, dù chỉ tiêu giải quyết việc làm là 43.000 lao động, tỉnh Bình Phước cũng đã hỗ trợ 40.633 người tìm được việc làm (đạt 94,5%), trong đó 5.986 lao động là dân tộc thiểu số, chiếm 13,93% tổng số2.

Việc vượt xa chỉ tiêu đào tạo nghề trong giai đoạn 2021 - 2024 cho thấy tỉnh Bình Phước đã huy động hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng lực tổ chức các khóa học và mở rộng quy mô đào tạo, với 64.274 lao động được đào tạo so với kế hoạch 37.000, đạt 173,7% chỉ tiêu, có đến 13.832 người là đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận các chương trình nghề. Đặc biệt, năm 2024, mặc dù chỉ tiêu đặt ra là 12.000 học viên, song tỉnh đã đào tạo gấp đôi khi thu hút được 22.040 lao động, trong đó 2.427 người dân tộc thiểu số được cấp bằng, chứng chỉ (183,6% kế hoạch)3.

Thứ hai, chính sách về lĩnh vực y tế và dân số. 

Công tác khám, chữa bệnh vùng dân tộc thiểu số được bảo đảm, có những bước tiến quan trọng, nhiều danh mục kỹ thuật không ngừng được chuyển giao, áp dụng điều trị hiệu quả cho người bệnh; các chương trình mục tiêu y tế - dân số vẫn duy trì hoạt động theo kế hoạch; hộ nghèo, cận nghèo vùng dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định; công tác tiêm chủng, chăm sóc sức khỏe trẻ em được triển khai đầy đủ. Tình hình các loại dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, không có dịch bùng phát trên diện rộng. Các chương trình mục tiêu dân số - y tế như: phòng, chống suy dinh dưỡng, dân số và phát triển; phòng, chống lao, phong, bướu cổ được duy trì hoạt động theo kế hoạch đề ra. 

Hiện nay, tỉnh Bình Phước triển khai đồng bộ các chính sách y tế và dân số dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chú trọng hai mảng chính: nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cơ sở và mở rộng chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình. Với gần 198.884 người dân tộc thiểu số (chiếm 19,67% dân số toàn tỉnh), 100% trạm y tế xã vùng dân tộc thiểu số đã được điều động tối thiểu một y, bác sĩ và được hỗ trợ kinh phí để tổ chức khám chữa bệnh lưu động định kỳ, bảo đảm mỗi xã có ít nhất 4 đợt chăm sóc sức khỏe cộng đồng mỗi năm. Chương trình tiêm chủng mở rộng đối với trẻ em dân tộc thiểu số dưới 1 tuổi đạt tỷ lệ bao phủ trên 98%, góp phần đưa mật độ bao phủ vắcxin lên gần 100% ở vùng sâu, vùng xa. Về dân số - kế hoạch hóa gia đình, các xã biên giới và vùng khó khăn đã thực hiện đạt trên 90% chỉ tiêu tuyên truyền, tư vấn và cung cấp dịch vụ miễn phí; tỷ suất sinh thô của nhóm dân tộc thiểu số giảm từ 24% (năm 2019) xuống còn 18%4 (năm 2023), tương đương giảm gần 25%. Những con số này phản ánh nỗ lực không ngừng của tỉnh Bình Phước trong việc thu hẹp khoảng cách về tiếp cận dịch vụ y tế, đồng thời cải thiện rõ nét chất lượng cuộc sống và sức khỏe sinh sản cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ ba, chính sách tín dụng đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bình Phước đã chủ động triển khai 11 chương trình tín dụng chung và 3 chương trình dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, với tổng doanh số cho vay đạt 209.441 triệu đồng cho 6.199 lượt khách hàng dân tộc thiểu số. Đặc biệt, từ khi Nghị định số 28/2022/NĐ-CP, ngày 26/4/2022 của Chính phủ được ban hành, Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh đã tập trung cho vay ưu đãi theo Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giải ngân 19.173 triệu đồng đến 289 lượt khách hàng. Trong đó, 16.173 triệu đồng dành cho 212 hồ sơ vay chuyển đổi nghề và 3.000 triệu đồng cho 77 hồ sơ vay hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở. Tính đến ngày 30/9/2024, dư nợ của các chương trình này còn 18.344 triệu đồng với 279 khách hàng (15.396 triệu đồng/203 lượt vay chuyển đổi nghề; 2.948 triệu đồng/76 lượt vay nhà ở). Như vậy, tỷ lệ giải ngân cao (95,6% so với kế hoạch đã cho vay)5 và mức duy trì dư nợ ổn định phản ánh tính hiệu quả trong tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, góp phần thiết thực vào nâng cao sinh kế và điều kiện an cư cho đồng bào dân tộc thiểu số. 

Thứ tư, chính sách về giáo dục - đào tạo.

Về công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ cho con em dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới tiếp tục được duy trì; công tác vận động, tuyên truyền học sinh dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được các cấp chính quyền, nhà tài trợ quan tâm, hỗ trợ tiếp sức cho con em đến trường. Toàn tỉnh có 27/111 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập trung học phổ thông; có 140/389 trường được công nhận đạt kiểm định chất lượng giáo dục và chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 35,99%; đến cuối năm học 2023 - 2024, toàn tỉnh có 45.062 học sinh dân tộc thiểu số/257.263 học sinh, ở các cấp học (từ mầm non đến trung học phổ thông), chiếm tỷ lệ 17,51% học sinh toàn tỉnh; có hệ thống trường dân tộc nội trú đáp ứng nhu cầu đào tạo cho con em dân tộc thiểu số trên địa bàn với 7 trường có 1.764 học sinh (1 trường cấp tỉnh, 6 trường cấp huyện; gồm: 4 trường trung học cơ sở, 1 trường trung học phổ thông, 2 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông); đa số trường được đầu tư xây dựng mới, đầy đủ phòng học, phòng bộ môn, ký túc xá, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Đến tháng 10/2024, có 111/111 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, 11/11 huyện, thị xã, thành phố duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 111/111 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 3, đạt tỷ lệ 100%, 11/11 huyện, thị xã, thành phố duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; toàn tỉnh có 8/111 xã, phường đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở mức độ 1, chiếm tỷ lệ 7,2%, đạt chuẩn mức độ 2: 60/111, chiếm tỷ lệ 54,05%, đạt chuẩn mức độ 3: 43/111 xã, phường, thị trấn, chiếm tỷ lệ 38,73% (toàn tỉnh đạt chuẩn phổ giáo dục trung học cơ sở mức 1 và đang phấn đấu công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở mức độ 2). Có 27/111 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia trung học phổ thông, chiếm tỷ lệ 24,32%6.

Việc thực hiện các chỉ tiêu về giáo dục dân tộc đa số đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, các chính sách hỗ trợ trẻ, học sinh, sinh viên tại các trường ở khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, ngày 18/07/2016 của Chính phủ; Nghị định số 57/2017/NĐ-CP, ngày 09/5/2017 của Chính phủ, Nghị định số 145/2018/NĐ-CP, ngày 16/10/2018 của Chính phủ, Nghị định số 105/2020/NĐ-CP, ngày 08/9/2020 của Chính phủ, Nghị quyết số 17/2020/NQ-HĐND, ngày 27/10/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh được tỉnh Bình Phước triển khai thực hiện đầy đủ theo đúng quy định. Về dạy tiếng dân tộc thiểu số: Năm học 2022 - 2023 chỉ có Trường Phổ thông dân tộc nội trú trung học cơ sở Lộc Ninh dạy tiếng Khmer cho học sinh từ khối 6 đến khối 8, với thời lượng 1 tiết/tuần/lớp theo hình thức ngoại khóa; các trường phổ thông dân tộc nội trú còn lại chủ yếu dạy ngôn ngữ giao tiếp trong sinh hoạt đời sống hằng ngày nhằm tạo điều kiện cho các em hòa nhập, trao đổi trong học tập7

Việc tổ chức, triển khai thực hiện các nội dung mục tiêu Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2021 - 2030 theo Nghị quyết số 10/NQ-CP được tỉnh Bình Phước quan tâm chỉ đạo, phân công nhiệm vụ một cách cụ thể, sát với tình hình thực tế địa phương; các sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã chủ động lồng ghép nội dung Chiến lược công tác dân tộc vào nội dung triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên của từng ngành, địa phương, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu Chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh. Trong đó, thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo hộ đồng bào dân tộc thiểu số năm 2022, số hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số là 2.820 hộ, chiếm tỷ lệ 57,91% trong tổng số hộ nghèo toàn tỉnh (4.870 hộ); kết quả, cuối năm 2022 đã giảm 1.198 hộ nghèo dân tộc thiểu số; đạt 115% so với kế hoạch. Năm 2023, thực hiện giảm 1.367 hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số, đạt 134% so với kế hoạch; đưa số hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh giảm xuống còn 574 hộ chiếm tỷ lệ 51,2% trên tổng số hộ nghèo của toàn tỉnh; tỷ lệ xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt chuẩn nông thôn năm 2023 đạt 77,58% (45/58 xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi)8.

Một số hạn chế:

Chính sách giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần thay đổi diện mạo vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, bên cạnh đó những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế nhất định như:

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều trong đồng bào dân tộc thiểu số số còn cao. Theo thống kê, đến năm 2023, hộ nghèo dân tộc thiểu số là 574 hộ9. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất còn hạn chế dẫn đến năng xuất và chất lượng nông sản thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao. Việc cầm cố đất, bán đất, bán điều non, vay tiền lãi suất cao còn diễn ra phổ biến trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khiến người dân không chỉ rơi vào cảnh đói nghèo, mà còn lâm vào cảnh nợ nần vì không có khả năng để trả nợ.

Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu tính đồng bộ, tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là đường giao thông từ trung tâm xã đến các thôn và liên thôn, gây ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của người dân.

Nguyên nhân của hạn chế:

Bình phước là tỉnh miền núi, biên giới, có xuất phát điểm kinh tế - xã hội thấp, địa hình chủ yếu là đồi núi, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiếu đất canh tác và nước sạch phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt. Bên cạnh đó, Bình Phước là một tỉnh nghèo, nguồn ngân sách hằng năm chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước, nhưng nhu cầu đầu tư lớn và nguồn vốn đầu tư hằng năm còn ít và không kịp thời, không đáp ứng đủ theo nhu cầu vốn của các đề án, dự án dẫn đến tiến độ triển khai chậm. Các chương trình giảm nghèo đang được triển khai nhưng chưa bao quát toàn diện công tác giảm nghèo; các chính sách, dự án, chương trình giảm nghèo được ban hành nhiều nhưng còn mang tính ngắn hạn, chồng chéo, chưa tạo sự gắn kết chặt chẽ nên chưa có tác động tích cực vào đời sống. Một số chương trình, dự án đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi đang còn bỏ ngỏ, chưa phát huy hiệu quả từ nhiều năm nay, như các dự án ổn định dân cư tập trung và dự án định cư tập trung cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo còn phân tán, chưa tập trung ưu tiên để giải quyết những vấn đề bức xúc trên các địa bàn trọng điểm. Thiếu giải pháp cụ thể trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo.

2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Phước

Một là, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng. 

Việc đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và biên giới của tỉnh Bình Phước không chỉ là “mở đường” về địa lý, mà còn là "mở đường" cho cơ hội kinh tế, giáo dục, y tế và kết nối xã hội. Trước hết, hoàn thiện mạng lưới giao thông “trục - nhánh” (từ quốc lộ, tỉnh lộ đến đường liên thôn, đường bản) với tiêu chí chịu tải quanh năm sẽ giảm chi phí vận chuyển nông sản từ 20 đến 30%, giúp nông dân dân tộc thiểu số nâng giá bán và thu nhập. Cùng với đó là đầu tư về điện lưới, năng lượng tái tạo (đèn LED năng lượng mặt trời cho từng thôn) và viễn thông (trạm BTS mini, cáp quang) sẽ giúp thu hẹp “khoảng trống số”, mở ra cơ hội cho thương mại điện tử, giáo dục trực tuyến và tư vấn y tế từ xa.

Bên cạnh đó là đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước sạch và xử lý chất thải: xây dựng bể lọc, đường ống dẫn nước tới từng hộ; trang bị nhà vệ sinh khép kín tiêu chuẩn; đồng thời, cải tạo kênh mương nội đồng để ứng phó với biến đổi khí hậu. Những công trình này không chỉ giúp nâng cao sức khỏe cộng đồng, mà còn giảm thiểu thời gian người dân đi lấy nước, nhất là phụ nữ và trẻ em, từ đó tăng thời gian lao động và học tập.

Hai là, tạo điều kiện để các hộ đồng bào dân tộc thiểu số thuận tiện trong tiếp cận chính sách trợ giúp xã hội.

Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trong việc tiếp cận các chính sách trợ giúp xã hội đóng vai trò then chốt trong quá trình giảm nghèo bền vững, đặc biệt là tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tại tỉnh Bình Phước, đây là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cải thiện đời sống và vượt qua khó khăn của các hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, chính quyền các cấp cần bảo đảm các hộ nghèo người dân tộc thiểu số được tiếp cận đầy đủ các chính sách hỗ trợ hiện hành như miễn, giảm học phí, cấp học bổng, hỗ trợ chi phí học tập và trợ cấp xã hội cho học sinh, sinh viên. Tiếp theo, cần có chính sách phù hợp trong hỗ trợ đời sống, bao gồm hỗ trợ tiền ăn, chi phí khám chữa bệnh, miễn phí các dịch vụ pháp lý, đồng thời kịp thời thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Điều này không chỉ giúp các hộ dân tộc thiểu số giảm bớt gánh nặng tài chính trong ngắn hạn, mà còn góp phần ngăn chặn nguy cơ tái nghèo và củng cố an sinh xã hội một cách bền vững.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân góp phần làm thay đổi hủ tục và cải thiện chất lượng giáo dục khu vực miền núi, biên giới.

Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến tình trạng nghèo đói kéo dài trong đồng bào dân tộc thiểu số là sự tồn tại dai dẳng của các hủ tục lạc hậu cùng với chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế. Vì vậy, điều quan trọng trước tiên là chính quyền cơ sở cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức cộng đồng, từng bước thay đổi những tập quán không còn phù hợp. Các nội dung tuyên truyền cần tập trung vào khuyến khích người dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình, từ bỏ tập quán phá rừng làm rẫy, đồng thời giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp để làm nền tảng phát triển kinh tế hộ gia đình. Song song đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trường lớp học ở vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi để trẻ em dân tộc thiểu số có cơ hội đến trường. Bên cạnh việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông, cần quan tâm đến xây dựng chương trình giảng dạy song ngữ, tổ chức đội ngũ giáo viên có khả năng dạy bằng tiếng dân tộc nhằm hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số tiếp cận kiến thức một cách hiệu quả, góp phần nâng cao dân trí. Đây được xem là một trong những giải pháp then chốt, mang tính bền vững, nhằm thay đổi tư duy, nâng cao năng lực tự chủ và thúc đẩy quá trình thoát nghèo của các hộ dân tộc thiểu số trong thời gian tới.

Bốn là, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giảm nghèo.

Để nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo một cách thiết thực, bền vững, cần tập trung củng cố và phát triển năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở tất cả các cấp, nhằm hỗ trợ người dân thoát nghèo một cách chủ động và phòng ngừa tái nghèo hiệu quả. Cùng với đó, việc xây dựng hệ thống theo dõi, giám sát và đánh giá toàn diện, có tính liên thông từ cơ sở đến cấp tỉnh là yếu tố cốt lõi để bảo đảm quản lý công tác giảm nghèo minh bạch, chặt chẽ.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào công tác cập nhật, quản lý dữ liệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo, nhằm bảo đảm tính kịp thời, chính xác và tránh bỏ sót đối tượng. Việc lập kế hoạch giảm nghèo tại các địa phương phải được cụ thể hóa theo từng nguyên nhân dẫn đến nghèo (thiếu đất, việc làm, y tế, giáo dục...) và gắn chặt với các mục tiêu, nhiệm vụ của đề án. Đồng thời, cần rà soát lại các cơ chế thực hiện chính sách hiện hành, tránh tình trạng chồng chéo giữa các chương trình, dự án trên cùng địa bàn, nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư.


1. "Tình hình dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Phước", ngày 23/12/2021, https://binhphuoc.gov.vn.

2. Báo cáo số 250/BC-UBND, ngày 25/12/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước về kết quả thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Phước năm 2024, phương hướng nhiệm vụ năm 2025.

3, 4. Báo cáo số 229/BC-UBND, ngày 07/10/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước về Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới.

5, 6, 7, 8, 9. Báo cáo số 250/BC-UBND, ngày 25/12/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước về kết quả thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Phước năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ năm 2025.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin