Nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới

CT&PT - Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các chủ trương, chính sách này tập trung vào phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giảm nghèo bền vững, nâng cao dân trí, cũng như bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và những giá trị truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Nhiều chủ trương, chính sách đã thực sự phát huy hiệu quả, làm thay đổi diện mạo các vùng núi, hải đảo, nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng tích cực.

1. Khái quát về đặc điểm, tình hình và hệ thống chính sách dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Đặc điểm và tình hình các dân tộc thiểu số ở nước ta
Việt Nam là một quốc gia đa dạng về thành phần dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm số lượng đông đảo nhất, còn lại là 53 dân tộc thiểu số với tổng cộng khoảng 14,12 triệu người, chiếm 14,7% dân số toàn quốc1. Sự chênh lệch về quy mô dân số giữa các dân tộc thiểu số khá rõ rệt: có 6 dân tộc gồm Tày, Thái, Mường, Mông, Nùng và Khmer có dân số trên 1 triệu người; ngược lại, 16 dân tộc có dân số dưới 10.000 người, đặc biệt là có 5 dân tộc rất ít người (Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo và Si La) với dân số chưa đến 1.000 người.
Năm 2019, các cộng đồng dân tộc thiểu số cư trú đan xen lẫn nhau và với người Kinh trên phạm vi rộng, trải dài ở 51 tỉnh/thành, 548 huyện và hơn 5.260 xã, trong đó có 382 xã vùng biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Có 9 tỉnh mà người dân tộc thiểu số chiếm trên 70% dân số, 3 tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số từ 50% đến 70%, 4 tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số từ 30% - 50% và 14 tỉnh có tỷ lệ trên 10%. Phần lớn đồng bào sinh sống ở khu vực miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa - nơi điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế. Cụ thể, khu vực miền núi phía Bắc có khoảng 6,7 triệu người, Tây Nguyên khoảng 2 triệu, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung khoảng 1,9 triệu, Tây Nam Bộ khoảng 1,4 triệu, số còn lại sống rải rác ở các tỉnh thành khác. Một số dân tộc như Khmer, Chăm, Hoa chủ yếu sinh sống ở đồng bằng hoặc đô thị2.
Cư dân dân tộc thiểu số cư trú tại các vùng chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng - an ninh. Tuy nhiên, nhiều địa bàn này có địa hình hiểm trở, chia cắt, cơ sở hạ tầng yếu kém và thường xuyên chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thiên tai như bão lũ, hạn hán, sạt lở đất… khiến cho đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn cách biệt khá xa so với mặt bằng chung của cả nước.
Hệ thống chính sách về dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Tính đến tháng 10/2020, hệ thống chính sách về dân tộc ở nước ta bao gồm 118 chính sách, được cụ thể hóa thông qua 173 văn bản pháp lý, bao gồm các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ, các nghị định và quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Trong tổng số này, có 54 chính sách mang tính trực tiếp, còn 64 chính sách có tính chất gián tiếp3. Nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán nguồn lực, nhiều đầu mối quản lý và khó khăn trong tổ chức thực hiện, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành liên quan tiến hành tích hợp, lồng ghép các chương trình, chính sách có cùng mục tiêu, đối tượng và địa bàn thành các chương trình tổng thể, quy mô lớn hơn.
Trong giai đoạn 2016 - 2018, đã có 29 văn bản chính sách được rà soát, điều chỉnh và ban hành mới, bao gồm: 6 chính sách được tích hợp, 3 chính sách được sửa đổi, 6 chính sách bị bãi bỏ, 2 chính sách được ban hành mới và 15 văn bản chỉ đạo điều hành liên quan đến chính sách dân tộc và chương trình giảm nghèo.
Về nội dung, các chính sách dân tộc hiện hành tập trung vào ba nhóm vấn đề cơ bản: Chính sách phát triển kinh tế tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, góp phần đưa các vùng này tham gia sâu vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính sách xã hội, chú trọng đến giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa..., với mục tiêu nâng cao năng lực cho người dân, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tạo điều kiện để các cộng đồng thiểu số có cơ hội phát triển toàn diện, từng bước cải thiện chất lượng cuộc sống về mọi mặt. Chính sách về quốc phòng - an ninh, tập trung vào các địa bàn chiến lược, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ gìn mối quan hệ hài hòa giữa các tộc người trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa.
Tóm lại, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách rời trong tổng thể chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết giữa phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng.
2. Một số thành tựu đạt được về thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam trong thời gian qua
Về hỗ trợ giảm nghèo và giải quyết việc làm
Việc thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo sâu sát và toàn diện, nhận được sự hưởng ứng tích cực từ các tầng lớp nhân dân và sự ghi nhận từ cộng đồng quốc tế. Nhờ các chính sách và chương trình hỗ trợ hiệu quả, trong giai đoạn 2015 - 2019, cả nước đã có 22 huyện, 125 xã và 1.298 thôn, bản được đưa ra khỏi diện đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới cũng ghi nhận nhiều kết quả tích cực tại khu vực dân tộc thiểu số. Tính đến cuối năm 2018, đã có 1.052 xã thuộc vùng này đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 22,9% tổng số xã, trong đó 106 xã từng là xã đặc biệt khó khăn đã vươn lên đạt chuẩn. Ngoài ra, có 27 huyện miền núi, vùng dân tộc thiểu số được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm khoảng 6% tổng số huyện trong khu vực. Những kết quả trên là minh chứng rõ nét cho nỗ lực không ngừng trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và nâng cao chất lượng sống cho đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước4.
Về bảo hiểm y tế
Bên cạnh việc tăng cường đầu tư cho hệ thống y tế cơ sở tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Đảng và Nhà nước cũng đã chỉ đạo quyết liệt việc cấp kinh phí để mua và phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho đồng bào. Chính sách này đã góp phần bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ khám, chữa bệnh của người dân tại mọi cơ sở y tế trên địa bàn, đồng thời giúp họ được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả chi phí thuốc men và vật tư y tế cần thiết. Về hạ tầng y tế, Nhà nước đã ưu tiên bố trí ngân sách từ các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án hỗ trợ y tế, nhằm xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, đặc biệt tại tuyến huyện và xã. Kết quả là trong giai đoạn 2016 - 2018, đã có 87 trạm y tế được xây dựng từ Dự án hỗ trợ ngành y tế EU, từ giai đoạn 2 của dự án này có 1.288 trạm y tế, cùng với 58 trạm y tế khác thuộc Dự án chăm sóc sức khỏe nhân dân các tỉnh Tây Nguyên, do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tài trợ. Nhờ những chính sách kịp thời và hiệu quả, tỷ lệ người dân tộc thiểu số có thẻ bảo hiểm y tế liên tục gia tăng: năm 2016 đạt 91%, năm 2017 đạt 92,05%, đến năm 2018 đã tăng lên 93,68%. Điều này cho thấy nỗ lực của Nhà nước trong việc bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khỏe, từng bước rút ngắn khoảng cách về dịch vụ y tế giữa vùng dân tộc thiểu số, miền núi và các khu vực khác trên cả nước5.
Về giáo dục
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu tiên đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số và miền núi như: Nghị định số 105/2020/NĐ-CP, ngày 08/9/2020 của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non; Nghị định số 116/2016/NĐ-TTg, ngày 18/7/2016 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; Nghị định số 141/2020/NĐ-CP, ngày 08/12/2020 quy định chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số... Đồng thời, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục - đào tạo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thông qua việc triển khai nhiều chương trình, dự án hỗ trợ thiết thực. Nhờ vậy, hệ thống trường lớp từ mầm non đến trung học phổ thông tại các khu vực này không ngừng được củng cố và mở rộng, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em các dân tộc thiểu số.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2022, trên cả nước có 49 tỉnh, thành phố đang duy trì 325 trường phổ thông dân tộc nội trú với tổng số 105.818 học sinh, cùng với 1.124 trường phổ thông dân tộc bán trú với tổng số 237.608 học sinh. Đáng chú ý, khoảng 45% số trường này đã đạt chuẩn quốc gia, cho thấy sự cải thiện rõ rệt về điều kiện cơ sở vật chất và chất lượng giáo dục. Chất lượng dạy và học tại các trường dân tộc nội trú ngày càng được nâng cao. Hằng năm, trên 95% học sinh tại các trường phổ thông dân tộc nội trú được đánh giá hạnh kiểm khá và tốt. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông tiếp tục học lên cao cũng khá ấn tượng, với trên 50% thi đỗ vào đại học, cao đẳng, khoảng 13% được tuyển thẳng hoặc theo học tại các trường dự bị đại học, gần 30% chọn học trung cấp chuyên nghiệp hoặc các cơ sở đào tạo nghề6.
Về đất ở và nước sinh hoạt 
Trong giai đoạn 2017 - 2021, nhằm giải quyết nhu cầu cấp thiết về đất ở và nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số, hơn 9.500 hộ đã được hỗ trợ theo Quyết định số 2085/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020. Song song với đó, Chính phủ đã huy động nhiều nguồn lực để mở rộng hệ thống cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho các vùng khó khăn. Trong giai đoạn 2013 - 2020, thực hiện Quyết định số 755/QĐ-TTg, ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định 2085/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ, đã có 476 công trình cấp nước tập trung được xây dựng, mang lại nguồn nước sinh hoạt cho 73.770 hộ dân dân tộc thiểu số. Nhờ các chính sách này, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đã tăng từ 73,3% năm 2014 lên 88,6% vào năm 20197.
Về trợ giúp xã hội
Để bảo đảm an sinh cho các nhóm dễ tổn thương, đặc biệt tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, ngày 15/3/2021 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Nghị định số 108/2021/NĐ-CP, ngày 07/12/2021 điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Trong giai đoạn 2015 - 2020, Trung ương đã hỗ trợ các địa phương, phần lớn là khu vực dân tộc thiểu số, hơn 313.000 tấn gạo và 2.200 tỷ đồng để cứu trợ khẩn cấp, giúp người dân khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm không ai bị đói trong dịp Tết Nguyên đán. Bên cạnh đó, các tỉnh, thành phố cũng đã huy động nguồn lực từ ngân sách địa phương, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng để hỗ trợ hàng nghìn tỷ đồng cho các đối tượng cần trợ giúp. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, đã có hơn 7 triệu người nghèo và cận nghèo được hỗ trợ với tổng kinh phí gần 5.400 tỷ đồng, trong đó trên 50% là người dân tộc thiểu số8.
Về tiếp cận thông tin
Tính đến năm 2019, cả nước có 67 đài phát thanh - truyền hình trung ương và địa phương (trong đó có nhiều kênh phát bằng tiếng dân tộc), cùng với gần 100 tờ báo in, điện tử và hơn 200 trang thông tin điện tử thường xuyên cung cấp nội dung phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt, từ năm 2017, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phủ sóng phát thanh và truyền hình mặt đất 100% xã miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Đồng thời, các hộ nghèo và cận nghèo là người dân tộc thiểu số cũng được hỗ trợ sử dụng dịch vụ điện thoại cố định hoặc di động trả sau theo giá cước ưu đãi thuộc chương trình viễn thông công ích9.
Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý
Trong giai đoạn 2017 - 2021, các địa phương trên cả nước đã triển khai mạnh mẽ các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật dành cho đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Cụ thể, đã tổ chức 348.016 hội nghị, lớp tập huấn về pháp luật, thu hút khoảng 9,85 triệu lượt người tham gia; đồng thời tổ chức 931 hội thi, cuộc thi tìm hiểu pháp luật với sự tham gia của hơn 305.000 lượt người. Bên cạnh các hình thức trực tiếp, công tác tuyên truyền còn được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Trong giai đoạn này, đã có 36.487 chương trình truyền hình và 95.679 chương trình phát thanh được phát sóng, trong đó nhiều nội dung được trình bày bằng tiếng dân tộc thiểu số nhằm tiếp cận hiệu quả hơn với người dân vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, các cơ quan chức năng còn chú trọng phát hành tài liệu tuyên truyền pháp luật với quy mô lớn, bao gồm: 2.459.866 cuốn sách, sổ tay pháp luật, 1.780.791 tờ rơi, tờ gấp, cùng với 47.015 panô, băng rôn. Nhiều tài liệu trong số này được biên soạn song ngữ hoặc bằng tiếng của các dân tộc thiểu số, giúp đồng bào dễ tiếp cận và hiểu rõ các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được lồng ghép vào các chuyên trang, chuyên mục trên truyền hình, phát thanh, báo chí và cổng thông tin điện tử, bao gồm cả những chuyên mục chuyên biệt bằng tiếng dân tộc, góp phần nâng cao nhận thức pháp lý và ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân tộc thiểu số.
Trong khuôn khổ thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý, đặc biệt là đối với người yếu thế và đồng bào dân tộc thiểu số, các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trên toàn quốc đã tích cực triển khai nhiều hoạt động nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí. Các hình thức trợ giúp bao gồm: tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và tham gia tố tụng, nhằm hỗ trợ người dân giải quyết những vướng mắc pháp lý trong các lĩnh vực như hình sự, dân sự, đất đai, hôn nhân, gia đình, hành chính, khiếu nại, tố cáo. Từ ngày 01/01/2018 đến 31/10/2022, các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại các tỉnh, thành phố đã thực hiện 157.504 vụ việc, hỗ trợ tương ứng 157.504 lượt người, trong đó có 49.569 trường hợp là người dân tộc thiểu số10. Những hoạt động trợ giúp pháp lý cụ thể này không chỉ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bào dân tộc thiểu số mà còn giúp nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật, từ đó thúc đẩy công lý, bảo đảm công bằng xã hội, giữ gìn trật tự - an toàn xã hội và phòng ngừa vi phạm pháp luật trong cộng đồng.

 

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong thời gian tới

Thực tiễn triển khai chính sách dân tộc thời gian qua đã mang lại nhiều kết quả quan trọng, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế như: chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, nguy cơ tái nghèo, tình trạng thiếu đất sản xuất, nước sinh hoạt, chất lượng giáo dục và y tế chưa đồng đều, một số chính sách còn dàn trải, chồng chéo, thiếu tính bền vững… Để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc trong giai đoạn tới, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc theo hướng đồng bộ, dài hạn và bền vững.
Chính sách cần gắn chặt với chiến lược phát triển quốc gia, có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải. Cần rà soát, tích hợp các chương trình còn chồng chéo, đồng thời xây dựng các cơ chế đặc thù cho từng vùng dân tộc, từng nhóm dân tộc rất ít người, bảo đảm tính khả thi và phù hợp thực tiễn. Việc hoạch định chính sách nên dựa trên tiếp cận nhân quyền, coi phát triển đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận không tách rời của tiến trình phát triển đất nước.

Thứ hai, ưu tiên phát triển kinh tế bền vững, gắn với bảo tồn văn hóa dân tộc.
Phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ dừng ở hỗ trợ sinh kế mà cần tạo động lực nội sinh. Nhà nước cần khuyến khích phát triển nông nghiệp sinh thái, du lịch cộng đồng, làng nghề truyền thống gắn với bản sắc văn hóa từng dân tộc. Việc khai thác tiềm năng đất đai, rừng, dược liệu, văn hóa phi vật thể… phải đi đôi với bảo vệ môi trường và giữ gìn giá trị truyền thống. Đây vừa là giải pháp kinh tế, vừa là con đường khẳng định bản sắc văn hóa và tăng cường sự tự chủ của đồng bào.

Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi trọng giáo dục - đào tạo.
Cần mở rộng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú; tăng cường đào tạo nghề gắn với nhu cầu lao động của địa phương và xu hướng phát triển mới (nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ du lịch, thương mại điện tử…). Đồng thời, cần chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, tạo nguồn kế cận vững chắc, bảo đảm sự tham gia chủ động của đồng bào vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách.

Thứ tư, củng cố và phát triển hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe toàn diện.
Ngoài chính sách bảo hiểm y tế, cần tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại cơ sở, phát triển y tế dự phòng, y học gia đình, đồng thời nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị của y học cổ truyền dân tộc. Việc kết hợp giữa y học hiện đại và tri thức bản địa sẽ giúp nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe, phù hợp điều kiện tự nhiên - xã hội vùng miền núi, biên giới.

Thứ năm, tăng cường bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số.
Chính sách dân tộc không chỉ nhằm nâng cao đời sống kinh tế - xã hội mà còn phải giữ gìn sự đa dạng văn hóa - yếu tố cốt lõi của bản sắc dân tộc Việt Nam. Cần hỗ trợ đồng bào bảo tồn tiếng nói, chữ viết, lễ hội, nghệ thuật diễn xướng, tri thức dân gian; đồng thời tạo điều kiện để văn hóa các dân tộc giao lưu, phát triển trong môi trường số. Việc xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở (nhà văn hóa cộng đồng, trung tâm sinh hoạt văn hóa - thể thao) cần được đẩy mạnh, coi đây là điểm tựa để tăng cường đoàn kết, củng cố niềm tin xã hội.

Thứ sáu, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phát huy vai trò cộng đồng.
Công tác quản lý và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc cần tinh gọn, thống nhất đầu mối, bảo đảm sự phối hợp hiệu quả giữa các cấp, các ngành. Đồng thời, phải phát huy vai trò chủ động của cộng đồng dân tộc thiểu số trong thực hiện chính sách. Mọi chương trình, dự án cần có sự tham gia từ khâu lập kế hoạch đến giám sát, đánh giá. Bên cạnh đó, cần tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản lý, kết nối thông tin, minh bạch nguồn lực, từ đó nâng cao hiệu quả và giảm thiểu thất thoát.

Thứ bảy, gắn chính sách dân tộc với củng cố quốc phòng - an ninh và hội nhập quốc tế.
Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số thường là vùng biên giới, có vị trí chiến lược quan trọng. Do đó, chính sách dân tộc phải gắn với chiến lược bảo vệ Tổ quốc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc. Đồng thời, cần thúc đẩy hợp tác quốc tế về phát triển bền vững vùng dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, tranh thủ nguồn lực từ các tổ chức quốc tế nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tự chủ, phù hợp điều kiện Việt Nam.

Thứ tám, đẩy mạnh truyền thông chính sách và nâng cao nhận thức xã hội.
Chính sách dân tộc chỉ thực sự hiệu quả khi đồng bào hiểu, đồng thuận và chủ động tham gia thực hiện. Do đó, cần tăng cường truyền thông đa phương tiện, sử dụng cả tiếng phổ thông và ngôn ngữ dân tộc, lồng ghép tuyên truyền qua già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo. Việc xây dựng niềm tin, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với nâng cao nhận thức về chủ quyền, pháp luật và trách nhiệm công dân.


1. Tổng cục thống kê: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.
2. Học viện dân tộc: Tài liệu bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, Hà Nội, 2019, tr. 5.
3. Mai Trang: “Hệ thống chính sách dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng đồng bộ và hoàn thiện”, http://quochoi.vn.
4, 7, 8, 9. Hầu A Lềnh: “An sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số - Vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, số 7/2023, tr. 38-39.
5. Mạnh Khương: “Bảo đảm quyền lợi bảo hiểm cho đồng bào dân tộc thiểu số”, http://danvan.vn, 2019.
6. Thúy Hồng: “Những bước tiến vượt bậc của giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”, http://baodantoc.vn, 2022.
10. Thu Hiền: “Trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số - Thực trạng và giải pháp”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, ngày 28/12/2022, https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx?ItemID=1918&l=Nghiencuutraodoi.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin