Tầm nhìn mới về chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng

Nguyễn Thu Hằng

CT&PT - Từ những thành quả đạt được qua hơn 35 năm Đảng ta lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới và bài học rút ra từ những tồn tại trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã viết tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Tác phẩm đánh dấu một bước tiến mới về nhận thức lý luận và thực tiễn, thể hiện tầm nhìn mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin rút ra từ việc tổng kết quy luật phát triển của lịch sử nhân loại bằng thế giới quan và phương pháp luận khoa học, điều đó đã được khoa học tự nhiên và khoa học xã hội chứng minh. Tuy nhiên, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội lại được tranh luận gay gắt trên toàn thế giới. Đối với nước ta, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng, toàn dân ta lựa chọn, chỉ con đường đó mới đem lại ấm no, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, giành được độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong bối cảnh tình hình mới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục nhất quán với mục tiêu và động lực đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện đường lối đổi mới và bước đầu đạt kết quả vượt bậc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay1.

Mặc dù trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ phân tích những kinh nghiệm và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, song đã tuyên bố, mô tả mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội cần đạt được trong tương lai cho toàn thể nhân loại. Mục tiêu đó dù còn lâu dài, khó khăn, song tất yếu, nhất định loài người sẽ đi đến. Điều đó đã và đang tiếp tục được khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thực tiễn lịch sử chứng minh.

Trên phương diện lý luận, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”2. Theo Tổng Bí thư, nhờ có tính khoa học, tính cách mạng mà chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, chỉ đường, dẫn lối cho các khoa học phát triển, trong đó có lý luận về chủ nghĩa xã hội. Chỉ trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận đó mới giúp chúng ta làm rõ được các vấn đề: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn của công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa như thế nào và đặt ra những vấn đề gì? Trong tác phẩm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, làm rõ bản chất thể chế chính trị của chế độ tư bản, mặc dù “... để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó”3. Tổng Bí thư dẫn chứng bằng các cuộc khủng hoảng tài chính, chính trị, xã hội, tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, cạn kiệt tài nguyên, môi trường… “Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa”4. Đồng chí chỉ rõ: “Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”5.

Trên cơ sở những đánh giá về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những thuộc tính cố hữu như: “dân chủ”, “tự do” cho người giàu, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng cao, thu lợi nhuận bằng mọi giá..., Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, để nhân loại cùng tồn tại, phát triển ổn định và bền vững, tất yếu và nhất định phải đi theo chủ thuyết phát triển, đó là: “Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”6. Đó chính là chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư đã làm rõ hơn vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc mà có sự quá độ để đi lên chế độ xã hội mới khác nhau: “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”7. Đồng thời chỉ rõ: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải làm dần dần, từng bước, không chủ quan, nóng vội; phải biết tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới; tìm tòi, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tìm ra cách thức, bước đi của thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phải luôn xuất phát từ điều kiện thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc”8.

Trên phương diện thực tiễn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định thế giới hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, cần tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các thể chế chính trị trước đó, đặc biệt là của chủ nghĩa tư bản, để chuẩn bị các điều kiện, tiền đề cơ sở vật chất tốt nhất cho chủ nghĩa xã hội, theo Tổng Bí thư: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”9. Nắm vững quan điểm của V.I. Lênin: “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều. Đó là sự nghiệp rất khó khăn và rất lâu dài, nhưng sự nghiệp đó đã bắt đầu, và đấy là điều chủ yếu”10, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra kinh nghiệm của Việt Nam, cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là phát triển kinh tế - xã hội, trong đó xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá tư duy lý luận về kinh tế. “Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối11. Nhờ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện đổi mới thành công cả trên phương diện kinh tế và chính trị.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mang tính ưu việt vượt trội so với nền kinh tế thị trường tư bản, bởi: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển12. Những vấn đề như văn hóa, y tế, giáo dục, an sinh xã hội phải được giải quyết hài hòa cùng với tăng trưởng kinh tế; giữa kinh tế với các yếu tố xã hội vừa phải gắn kết với nhau, vừa tạo điều kiện cho nhau phát triển bền vững.

Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ ra rằng, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đó là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. “Thực tế gần một thế kỷ qua cho thấy, ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, giành được hết thắng lợi này đến thành công khác”13. Đảng phải mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của cả dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân. Để chèo lái con thuyền cách mạng đi đúng hướng, mọi cương lĩnh, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng phải được xây dựng trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu14. Do đó, “chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa15. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải dựa vào nhân dân, với tinh thần đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”16.

Xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài, nhưng tất yếu phải thực hiện, bởi chỉ có nhà nước xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm quyền làm chủ thuộc về nhân dân, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; giải quyết hài hòa các lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho mọi người tự do phát triển, tự do sáng tạo và bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững. “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”17. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trước hết, Quốc hội cần “kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân... tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò, vị trí của mình trong việc tạo lập khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của đất nước, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại”18.

Hai là, cần xây dựng một chính phủ liêm chính, kiến tạo, triển khai và hoàn thành xuất sắc các nghị quyết của Đảng đã đề ra; linh hoạt, năng động, sáng tạo trong điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại: “để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn trên cơ sở tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục có hiệu quả tác động của đại dịch Covid-19, nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế; phát huy mạnh mẽ các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam và sức sáng tạo của mỗi cá nhân; từng bước xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; chú trọng bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế”19.

Ba là, phải xây dựng cơ quan nội chính thực sự là những “thanh bảo kiếm” sắc bén và “lá chắn” vững chắc để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội: Phải có trái tim sục sôi bầu nhiệt huyết cách mạng, sẵn sàng hành động vì nước, vì dân; có cái đầu đầy bản lĩnh và trí tuệ để khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; có đôi chân vững chắc và bàn tay sạch để đứng vững, đứng thẳng và khước từ mọi sự cám dỗ tầm thường, giữ danh dự của người cán bộ nội chính. Trong mọi hoàn cảnh, phải luôn luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc và lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết; phải luôn tiên phong, xung kích đi đầu, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân với tinh thần “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng, Nhà nước và chế độ, “Còn Đảng thì còn mình”, xứng danh là “thanh bảo kiếm” sắc bén, “lá chắn” thép vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Điều này đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ, công chức cơ quan nội chính phải thường xuyên tôi luyện, rèn giũa bản thân để “thanh bảo kiếm” luôn rắn rỏi và sắc bén, dám vung kiếm và vung kiếm đúng lúc, chém đúng đối tượng, không bị sứt mẻ; để “lá chắn” luôn vững vàng, chắc chắn, không một viên đạn, mũi tên nào có thể xuyên thủng, nhất là những viên đạn, mũi tên “bọc đường””20.

Bốn là, phát huy truyền thống đại đoàn kết, huy động sức mạnh của toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng qua các thời kỳ. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần làm tốt hơn nữa vai trò là nòng cốt chính trị, có trách nhiệm vẻ vang trong xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, xây dựng sự đồng thuận xã hội để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính trị của đất nước trong giai đoạn mới. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải là “ba chân kiềng” vững chắc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta, Tổ quốc ta”21.

Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức và các đoàn thể xã hội nhằm tăng cường nội lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra vai trò to lớn của tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân, hội nông dân đối với sự nghiệp cách mạng: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, Công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân”22; “sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp của toàn dân, trong đó, hội viên, nông dân đóng vai trò chủ thể, vừa là lực lượng thực hiện vừa là người được thụ hưởng thành quả, để từ đó huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của giai cấp nông dân và các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, làm cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta có bước phát triển nhanh và bền vững hơn nữa”23. Đồng thời, đề nghị “các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, bộ, ngành, đoàn thể cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và phối hợp thực hiện thật tốt công tác thanh niên; tiếp tục quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện, cơ chế thuận lợi để tổ chức đoàn và thanh niên lao động, rèn luyện, xây dựng, củng cố tổ chức đoàn, xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn, cán bộ trẻ nhiệt huyết, bản lĩnh, mẫu mực, có năng lực dẫn dắt, truyền cảm hứng”24.

Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn dành sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hóa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ những đóng góp to lớn của văn hóa vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Tổng Bí thư đã làm nổi bật tính tất yếu của việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới và sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: ““Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “văn hóa còn thì dân tộc còn”, văn hóa “thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”25.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản đang chiếm ưu thế, thế giới đang có những diễn biến hết sức phức tạp, nhanh chóng, khó lường, cần có một chiến lược ngoại giao linh hoạt, sáng tạo. Sau khi rút ra bài học sâu sắc từ những thắng lợi về ngoại giao trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, phá thế bao vây, cấm vận; đưa đất nước hội nhập và phát triển, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra tư tưởng chỉ đạo công tác ngoại giao trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; sự ủng hộ, giúp đỡ và nguồn lực từ bên ngoài là vô cùng quan trọng”26.

Trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết từ thực tiễn đầy biến động của thế giới, gắn với những phát minh, sáng chế và ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học và công nghệ vào mọi mặt của sản xuất và đời sống xã hội con người, tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập một cách toàn diện những vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Qua đó khẳng định, chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới giải quyết được một cách hài hòa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích chính trị và các vấn đề xã hội khác; bảo đảm cho nhân loại cùng tồn tại hòa bình, ổn định, phát triển bền vững. Xa rời mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội sẽ nhanh chóng đẩy nhân loại đi vào tự hủy hoại, tự diệt vong. Do đó, các lực lượng tiến bộ trong xã hội, nhất là giai cấp công nhân với chính đảng của mình giữ vai trò là hạt nhân, tập hợp tất cả quần chúng nhân dân lao động đấu tranh loại bỏ những thuộc tính cố hữu của chế độ tư bản như: bất công, áp bức, bóc lột, chạy theo lợi nhuận của một vài cá nhân bất chấp lợi ích chung của nhân loại…, đưa nhân loại đi đến chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Có thể khẳng định, những phân tích của đồng chí Tổng Bí thư đã giúp chúng ta có tầm nhìn mới về chủ nghĩa xã hội trên cả phương diện nội dung và chiều dài của lịch sử. Mặc dù con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung còn nhiều khó khăn, thử thách, song tuyệt đối không được bi quan, nản lòng. Dưới sự lãnh đạo của một đảng chân chính, với chủ trương lấy lợi ích của nhân dân, quốc gia - dân tộc làm mục tiêu, động lực và chiến lược: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”27, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25.

2, 3, 4, 5, 6, 8, 11, 12, 13, 14, 16, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 37-38, 19, 20, 21, 21-22, 234, 26, 26-27, 208, 28, 212, 79-80, 90, 141, 108-109, 293, 301, 313-314, 13, 191, 52.

7, 9. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 25.

10. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 39, tr. 25.

15, 17. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 29.

PGS, TS. VI THÁI LANG

T03, Bộ Công an

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin