Quan điểm của đảng cộng sản Việt Nam về Hội nhập quốc tế

CT&PT - Ngày nay, hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc, vừa là nhu cầu tồn tại của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, mang lại nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Điều này cho thấy, hội nhập quốc tế là một chủ trương đúng đắn, nhất quán, là định hướng chiến lược lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

CT&PT -  Ngày nay, hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc, vừa là nhu cầu tồn tại của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, mang lại nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Điều này cho thấy, hội nhập quốc tế là một chủ trương đúng đắn, nhất quán, là định hướng chiến lược lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở đầu quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) xác định rõ những nhiệm vụ kinh tế - xã hội vừa cơ bản, vừa trước mắt là giải phóng sức sản xuất, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nhanh chóng vượt qua khủng hoảng kinh tế, phá vỡ thế bị bao vây cấm vận của các thế lực thù địch và mở rộng quan hệ đối ngoại. Triển khai đường lối đổi mới về kinh tế, Việt Nam từng bước xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, dưới sự điều tiết của Nhà nước, khuyến khích sự đóng góp của mọi thành phần kinh tế để tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa cho xã hội. Những thành tựu bước đầu đạt được trong phát triển kinh tế đã góp phần làm dịu bớt những căng thẳng về kinh tế - xã hội, khẳng định tính đúng đắn trong đường lối đổi mới của Đảng. Trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và Nghị quyết số 13-NQ/TW (tháng 5/1998) của Bộ Chính trị, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI khẳng định: Kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, với phương châm tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, trên cơ sở hợp tác và đấu tranh cùng tồn tại trong hòa bình và “chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chính sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”1.

Phát triển tư tưởng đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) thông qua đã xác định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ với các nước trên tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”2. Mục tiêu của chính sách đối ngoại là “tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội... Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”3.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tháng 6/1992, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã triển khai chính sách đối ngoại, kinh tế đối ngoại trong tình hình mới, đồng thời nhấn mạnh chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế”4, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, từng bước phá vỡ thế bao vây, cấm vận của phương Tây, tranh thủ viện trợ, đầu tư, mở rộng thị trường.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn tới là củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, cũng như những điều chỉnh chính sách sâu rộng của các đối tác, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) chỉ rõ nhiệm vụ đối ngoại hàng đầu của Việt Nam là “tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”5, đồng thời xác định “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là sự phản ánh một nấc thang cao hơn trong tư duy đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhằm cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó nêu rõ: “Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển”6.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục phát huy tinh thần của các kỳ đại hội trước về nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong những năm tiếp theo. Đồng thời, nhấn mạnh: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”7. Quán triệt tinh thần đó, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã được triển khai một cách “chủ động”, “tích cực” và “năng động” hơn.

Ngày 05/02/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08- NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, nhằm huy động tối đa các nguồn lực, tiếp tục tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước, đưa công tác ngoại giao kinh tế trở thành nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị.

Quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) kế thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”8. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đánh dấu bước chuyển căn bản trong tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế khi chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, nhằm mục tiêu “nâng cao vị thế đất nước, vì lợi ích quốc gia, dân tộc”.

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); đồng thời, cần chú trọng một số quan điểm chỉ đạo sau:

Một là, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân; khai thác hiệu quả tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, khu vực trong cả nước.

Bốn là, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa - xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được phát triển đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

Năm là, hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia.

Sáu là, thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò của cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế, trong đó nêu rõ: “Phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế hợp tác mà nước ta là thành viên. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn khác, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực triển khai chủ trương đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế, chủ động chuẩn bị nhân sự ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức quốc tế. Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực và nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn các chính đảng; tích cực tham gia các cơ chế hợp tác nghị viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế; mở rộng giao lưu nhân dân, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”9.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII 

Trong tình hình mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh: “nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế”. Ngày 05/11/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, quán triệt các quan điểm nêu trên là cơ sở quan trọng để bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, trước hết là giữ vững hòa bình, độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Việt Nam có thể tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài như: vốn đầu tư, khoa học và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, phục vụ cho xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc. Từ kết quả triển khai quá trình hội nhập quốc tế trong những năm qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định rõ tư tưởng chỉ đạo “Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10.

Kế thừa tinh thần của các kỳ đại hội trước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch và các lĩnh vực khác. Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết. Mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã hội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội”11.

Định hướng đối ngoại giai đoạn 2021 - 2030 được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã làm rõ hơn nội dung: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”12.

Để thực hiện thắng lợi chủ trương hội nhập quốc tế, đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trong những năm tới, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII đã đề ra, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các cấp, các ngành, các địa phương.

Hai là, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là với 15 đối tác chiến lược và 12 đối tác toàn diện, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, thúc đẩy quan hệ trên tất cả các lĩnh vực, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Ba là, Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế. Theo đó, cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân nhận thức đúng thách thức cũng như cơ hội mà họ có được từ quá trình hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực, biến quá trình hội nhập quốc tế chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp và người dân.

Bốn là, trong quá trình triển khai các định hướng lớn về hội nhập quốc tế, Việt Nam cần tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực của các thể chế hội nhập quốc tế; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập quốc tế.

Năm là, trong hội nhập kinh tế, Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:

- Các bộ, ngành và địa phương cần chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch toàn diện và cụ thể để thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, trong đó trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế.

- Gắn kết hội nhập kinh tế quốc tế với cải cách trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu chính trị - ngoại giao và mục tiêu chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng mức độ cam kết và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, đồng thời có các điều chỉnh trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để có hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện các cam kết thương mại.

- Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết hội nhập, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ngày càng phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm. 

- Tăng cường nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và dự báo các vấn đề mới liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc triển khai thực hiện ở mức độ cao hơn các cam kết, các FTA để chủ động điều chỉnh chính sách và có biện pháp phù hợp...

Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, Việt Nam sẽ thực hiện tốt mục tiêu hội nhập quốc tế, đó là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tích cực quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI), Hà Nội, 1989, tr. 40.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 147.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 326.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1992, tr. 15.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 119.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 60, tr. 876.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 113-114.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 83-84.

9, 10. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về hội nhập kinh tế quốc tế, https://thuvienphapluat.vn/ van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-22-NQ-TW-nam-2013-Hoi-nhap-quoc-te-203954.aspx.

11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 164, 117-118.

PGS, TS. PHẠM MINH SƠN

Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin