Phát triển nguồn nhân lực của quốc gia là các hoạt động (đầu tư) phát triển giáo dục và đào tạo và khoa học công nghệ để tạo ra nguồn nhân lực với số lượng, chất lượng cao và cơ cấu hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân; nâng cao sức khoẻ, trí tuệ, đạo đức, năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp … để tăng năng suất lao động, tăng thu nhập, nâng cao đời sống. Hay nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực là quá trình gia tăng, biến đổi đáng kể về chất lượng của nguồn nhân lực và sự biến đổi này được biểu hiện ở việc nâng cao năng lực, động cơ của người lao động và sử dụng năng lực toàn diện của người lao động vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm 3 nội dung cơ bản, đó là: phát triển quy mô và cơ cấu dân số thích hợp; đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Một là, phát triển quy mô và cơ cấu dân số thích hợp
Phát triển nguồn nhân lực trước hết là vấn đề phát triển quy mô và cơ cấu dân số thích hợp cho từng giai đoạn phát triển. Sự phát triển dân số của một quốc gia, một vùng lãnh thổ hoặc một địa phương cần phải bao gồm cả tính hợp lý về quy mô, phân bố và tốc độ phát triển, tính hợp lý về cơ cấu chia theo độ tuổi, giới tính và tình trạng hoạt động kinh tế cũng như tính hợp lý về quy mô, cơ cấu dân số hoạt động kinh tế chia theo trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng, ngành nghề đào tạo, lĩnh vực hoạt động, cơ cấu nghề nghiệp và thành phần xã hội... trong điều kiện không gian và thời gian xác định.
Trong thực tế, các yếu tố dân số có ảnh hưởng rất lớn đến tài nguyên thiên nhiên và trạng thái môi trường. Do đó, đòi hỏi sự điều chỉnh các xu hướng phát triển dân số phù hợp với sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phù hợp đó là yếu tố quan trọng kích thích sự phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao tiềm lực của lực lượng sản xuất; là yếu tố cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm tình trạng thất nghiệp, giảm tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, nâng cao vị thế của người phụ nữ, giảm rủi ro về môi trường, mở rộng dịch vụ y tế, xã hội và huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển khoa học và công nghệ... Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và do đó đến phát triển nguồn nhân lực.
Hai là, phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
Lý luận và thực tiễn đều khẳng định Giáo dục và đào tạo là “nhân tố cốt lõi”, “cơ bản” tạo nên chất lượng nguồn nhân lực. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi, sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”1. “Phát triển Giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho Giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”2; Đại hội lần thứ XI của Đảng cũng nêu “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”3.
Điều 2 Luật Giáo dục 2013 cũng quy định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, công tác giáo dục, đào tạo phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đào tạo cho nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, năng lực tư duy, sáng tạo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục và đào tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhiệm vụ hàng đầu của Giáo dục và đào tạo là trang bị tri thức và trình độ chuyên môn, trình độ tư duy theo mục tiêu, yêu cầu xác định. Trang bị tri thức là chức năng cơ bản của Giáo dục và đào tạo. Sự phát triển của Giáo dục và đào tạo chính là sự phát triển những tri thức mà nó trang bị cho người học. “Sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước thể hiện tập trung và trước hết ở nền Giáo dục và đào tạo cung cấp, trang bị cho người học những tri thức, kiến thức, chuyên môn cần thiết để họ có thể khám phá và cải tạo thế giới, lao động sáng tạo, cống hiến cho xã hội.
Trên cơ sở những tri thức, kiến thức, kinh nghiệm, chuyên môn mà Giáo dục và đào tạo mang lại, năng lực tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của người lao động sẽ ngày càng phát triển.
Điều 5, khoản 2 Luật Giáo dục đại học 2013 ghi rõ: b) Đào tạo trình độ đại học để sinh viên có kiến thức chuyên môn toàn diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề thuộc ngành được đào tạo; c) Đào tạo trình độ thạc sĩ để học viên có kiến thức khoa học nền tảng, kỹ năng chuyên sâu về một lĩnh vực khoa học hoặc hoạt động nghề nghiệp hiệu quả, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề chuyên ngành đào tạo; d) Đào tạo trình độ tiến sĩ để nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và ứng dụng, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát triển tri thức mới, phát hiện nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội và giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu và hoạt động chuyên môn.
- Đào tạo phát triển và hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao thể chất đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Nhân cách con người được hình thành, phát triển thông qua các mối quan hệ tác động giữa con người với con người, với xã hội, với thiên nhiên, thông qua các mối quan hệ lao động, văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo… để tồn tại và phát triển. Giáo dục và đào tạo luôn có vai trò chủ đạo đối với việc hình thành và phát triển nhân cách. Nhân cách thường được xác định và cụ thể hóa bằng hệ thống giá trị, nhất là những giá trị tiêu biểu. Mỗi một thời kỳ lịch sử có những giá trị cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu thời kỳ ấy. Giáo dục và đào tạo xác định nội dung, chương trình nhằm đào tạo nên những con người theo các giá trị, chuẩn mực nhân cách nhất định, trong đó có những giá trị mang tính truyền thống, cốt cách và bản sắc dân tộc, đồng thời có những giá trị mới phù hợp với thời đại.
Luật Giáo dục đại học 2013 xác định: Đào tạo người học “có phẩm chất chính trị, đạo đức”; “có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp”; “có ý thức phục vụ nhân dân”. Thông qua Giáo dục và đào tạo, nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của con người từng bước phát triển và hoàn thiện. Bên cạnh việc trang bị, phát triển tri thức, nâng cao khả năng lao động, làm việc, Giáo dục và đào tạo còn trực tiếp góp phần tăng cường sức khỏe, sự bền bỉ dẻo dai, những tố chất thể chất cần thiết của người lao động. nguồn nhân lực chỉ có thể phát triển toàn diện cả về trí lực, thể lực và các hoạt động xã hội khác nếu Giáo dục và đào tạo được thực hiện tốt. Nhiều nghiên cứu về Giáo dục và đào tạo ở thế kỷ XXI đã công bố và đưa ra bốn trụ cột chính của xã hội học tập: Thứ nhất, học tri thức là học kiến thức để thích ứng với những thay đổi của khoa học công nghệ và kinh tế, xã hội; đó là “giấy thông hành” cho việc học suốt đời. Thứ hai, học làm việc là học nghề, phát triển khả năng đương đầu với những tình huống khác nhau và làm việc trong tập thể, những kỹ năng làm việc, cách tham gia các hoạt động nghề nghiệp, xã hội. Thứ ba, học cách tồn tại là đòi hỏi có khả năng tự quản và phán đoán cao, tăng cường trách nhiệm cá nhân để đạt mục tiêu chung. Thứ tư, học cách chung sống là khả năng hiểu biết người xung quanh, lịch sử, truyền thống, văn hóa tinh thần người khác, biết phân tích nguy cơ và thách thức, khả năng thực hiện đề án chung và giải quyết xung đột thông minh và hòa bình.
Với những nội dung và yêu cầu trên, Giáo dục và đào tạo sẽ tạo cho người lao động những cơ sở căn bản, “cốt vật chất” cho sự phát triển toàn diện của mình. Đó là việc mang lại cho người lao động sự phát triển về thể chất và tinh thần.
- Đào tạo phương pháp làm việc khoa học và khả năng thích ứng nhanh với biến đổi của môi trường cho người lao động làm việc trong nước và quốc tế.
Bên cạnh việc trang bị, phát triển tri thức, nâng cao khả năng lao động, làm việc, khả năng hoàn thành nhiệm vụ độc lập và khả năng làm việc tập thể, khả năng tư duy khoa học, thì Giáo dục và đào tạo trực tiếp bồi dưỡng phương pháp làm việc khoa học và khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của môi trường làm việc cho người học. Không có phương pháp làm việc khoa học và khả năng thích ứng thì người học không thể đáp ứng được yêu cầu theo tiêu chí của nhân lực chất lượng cao. Thông qua Giáo dục và đào tạo, phương pháp làm việc khoa học của người học được hình thành và từng bước nâng cao. Đối với nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay, phương pháp làm việc khoa học và khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của môi trường làm việc trong nước và quốc tế là vấn đề quan trọng đặc biệt. Nó tạo điều kiện và cơ sở vững chắc cho hoạt động sáng tạo của người lao động, nâng tầm ảnh hưởng và vai trò của họ đối với quá trình kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị trước sự biến đổi nhanh chóng của môi trường làm việc.
Môi trường làm việc trong nước và quốc tế ngày càng xuất hiện nhiều ngành nghề mới và nhiều ngành nghề cũ bị mất đi; kỹ năng, kiến thức của con người dễ trở nên lạc hậu, bị thực tiễn vượt qua, nếu không được học tập, bồi đắp liên tục. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phân công lao động quốc tế ngày càng mở rộng về quy mô và yêu cầu cao về chất lượng thì càng đòi hỏi người lao động phải có kiến thức và phẩm chất cần thiết, cơ bản, có khả năng thích ứng, thích nghi tốt để hội nhập quốc tế. Giáo dục và đào tạo giúp cho người học tri thức, kỹ năng, phương pháp hiện đại cần thiết để họ có thể hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đồng thời khắc phục được tình trạng khép kín, đóng cửa, hoặc tiếp thu máy móc, phiến diện những kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với sự tiến đến nền văn minh trí tuệ, đến các “xã hội thông tin”, trong đó “thông tin” trở thành nguồn tài nguyên quan trọng của mọi quốc gia, việc “tin học hoá” tạo nên những chuyển biến nhanh chóng về lượng cũng như về chất của nền kinh tế thế giới, thì con người được vũ trang bằng những tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ bản của sự phát triển.
Thứ ba, phân bổ, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực
Tạo ra nguồn nhân lực có trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp và sức khỏe tốt là vấn đề quan trọng trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhưng vấn đề quan trọng hơn là việc đào tạo, phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực phải hợp lý, làm cho nó trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với xu hướng biến đổi tiến bộ trên thế giới, lực lượng lao động được phân bổ sử dụng theo hướng: tăng tỷ trọng lao động hoạt động trong các ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp. Đó cũng là xu hướng tất yếu, khách quan của quá trình công nghiệp hóa và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay. Nguyên nhân của sự biến đổi này có thể kể đến sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của các ngành công nghiệp, năng suất lao động trong công nghiệp tăng, sự đảm bảo dư thừa về lương thực thực phẩm của ngành nông nghiệp cho toàn xã hội.
Để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, bên cạnh việc tạo ra nhiều việc làm để có thể toàn dụng lao động, giảm tỷ lệ thất nhiệp, cần phải tạo động lực và môi trường cho người lao động phát huy hết năng lực, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình lao động sản xuất; có chế độ đãi ngộ tương xứng để vừa có thể tái tạo sức lao động vừa động viên khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Thông qua đó, năng suất lao động xã hội sẽ được nâng cao.
Trong điều kiện nhân loại đang phát triển nền kinh tế tri thức, phát triển khoa học kỹ thuật, toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao là một nội dung chiến lược trong phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, ở Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một trong những ưu tiên được đặt ra hàng đầu là cải cách nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực. Để có được đội ngũ nhân lực có đủ đức, đủ tài phục vụ cho sự nghiệp cách mạng hiện nay thì yêu cầu đòi hỏi phải thực hiện tốt ngay từ đầu công tác tuyển dụng với những hình thức, tiêu chí đề ra sao cho vừa đảm bảo được tính khách quan, sát với yêu cầu công tác ở vị trí hiện tại, đồng thời tạo được môi trường thuận lợi để họ có thể phát huy hết khả năng sở trường vào phát triển kinh tế - xã hội.
Vấn đề thu hút và sử dụng nguồn nhân lực suy cho cùng là khai thác năng lực sáng tạo của nguồn lao động. Để thực hiện được điểm này cần: Xây dựng tiêu chí của từng chức danh công việc đáp ứng yêu cầu của các vị trí của từng lĩnh vực; thực hiện công khai về kế hoạch tuyển dụng cán bộ và tổ chức thi tuyển một cách công bằng và minh bạch; xây dựng chế độ tiền lương, thu nhập xứng đáng với đóng góp của nguồn nhân lực có chất lượng cao.
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.76, 77, tr. 77, tr. 106.
TS. TẠ VIẾT TRƯỜNG
Học viện Khoa học xã hội