1. Về quan điểm, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong bối cảnh mới
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ phương hướng đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế, đó là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; kết hợp hiệu quả nội lực và ngoại lực, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nghị quyết 06-NQ/TW khóa XII nêu rõ mục tiêu thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII ngày 05/11/2016 về hội nhập kinh tế quốc tế có nêu ra quan điểm chỉ đạo về hội nhập quốc tế:
- Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, nhất là mối quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.
- Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là trong những lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị - xã hội.
- Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là công đoàn, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức độ đóng góp của các bên tham hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt về chính trị.
2. Một số giải pháp cụ thể thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong bối cảnh mới
Một là, tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung. Nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội, đặc biệt là của doanh nghiệp, doanh nhân đối với các thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là cơ hội, thách thức và những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp và hiệu quả cho từng ngành hàng, hiệp hội, doanh nghiệp và cộng đồng.
Chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Chủ động, kịp thời phát hiện, đấu tranh với các luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đặc biệt, các Bộ, ngành và địa phương cần chủ động đề ra chiến lược cụ thể rõ ràng trong ngắn, trung và dài hạn một cách có cơ sở khoa học trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời, liên tục tổng kết và rút ra kinh nghiệm trong quá trình hội nhập.
Hai là, Việt Nam phải gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với đẩy mạnh cải cách trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Giai đoạn 5 năm tới đây, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các FTA thế hệ mới. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt là cần gia tăng mức độ tự chủ, độc lập của nền kinh tế, tránh để bị phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể, giành vị trí cao hơn trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam cũng cần tận dụng chính hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong quan hệ với đối tác nước ngoài.
Ba là, huy động mọi nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng: để phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại trong hội nhập quốc tế, nhất thiết đất nước phải có kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại. Để huy động mọi nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng một cách thành công, cần thiết phải thực hiện minh bạch hóa và đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, tăng cường kiểm tra kiểm soát việc vay vốn và sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả. Kiên quyết triệt để chống lãng phí và tham nhũng để lấy lại niềm tin vào Chính phủ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, niềm tin của nhân dân vào tiền thuế của mình được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, không bị thất thoát bởi tệ nạn lãng phí và tham nhũng.
Bốn là, để đón đầu những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, Việt Nam cần tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghệ cao. Lợi thế lao động giá rẻ không phải là lợi thế lâu dài để thúc đẩy hội nhập. Việc thiếu hụt nhân lực trình độ cao chính là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, nước ta cần tập trung tăng cường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt coi trọng năng lực cán bộ, phân bổ hiệu quả nguồn nhân lực, tăng cường nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nhân về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Song song với việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, một nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách là phải xây dựng chính sách theo hướng tự do hóa thương mại đồng thời thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp non trẻ. Về phía doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể là các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các nguyên tắc, quy định cơ bản của WTO và diễn đàn thương mại khu vực nhằm giúp doanh nghiệp hiểu và vận dụng tối đa lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế trong kinh doanh, tự bảo vệ mình trong các tranh chấp thương mại quốc tế.
Năm là, xây dựng được một tiềm lực kinh tế vững chắc, đủ mạnh để trên cơ sở đó, khai thác một cách tối đa và có hiệu qủa các lợi thế cạnh tranh, đối phó thắng lợi với những thách thức nảy sinh trong quá trình này. Điều đó đòi hỏi chúng ta không những phải không ngừng nâng cao mức tích luỹ từ chính nền kinh tế quốc gia, mà còn phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh cao, một kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và ngày một nâng cao năng lực nội lực nội sinh, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành để tận dụng tối đa những lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế. Cần tiến hành đánh giá mức độ cạnh tranh của các ngành, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nâng cao khả năng cạnh tranh cho những ngành có lợi thế cạnh tranh và định hướng điều chỉnh sản xuất cho các ngành, doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh. Đối với các ngành xuất khẩu chủ lực, cần có chính sách để chuyển dần từ gia công sang tự xuất khẩu. Cần có chính sách thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong tất cả các ngành của nền kinh tế thông qua nâng cấp nhân lực, công nghệ, tiếp cận công nghệ nguồn tốt hơn, hợp tác dài hạn với các đối tác mạnh trong lĩnh vực tương ứng, đa dạng hóa, đổi mới sản phẩm.
Sáu là, chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh mức độ cam kết và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, đồng thời có các điều chỉnh thương mại trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện các cam kết thương mại. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã trải qua giai đoạn thực hiện các cam kết ban đầu, đến nay quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng đi vào chiều sâu, việc thực hiện các cam kết trong giai đoạn mới chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.
Việc thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các cam kết góp phần tạo dựng và nâng cao mức độ tin cậy, đẩy mạnh và chủ động làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác tạo điều kiện cho Việt Nam thực hiện lộ trình hội nhập. Mặt khác, điều đó giúp Việt Nam tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.
Chủ động và đẩy mạnh hội nhập hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi thực tiễn khách quan trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay. Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hội nhập, đã trở thành quốc gia có vị trí cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thách thức làm cản trở đến tiến trình hội nhập. Trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng trong thời gian tới, Việt Nam cần xác định quan điểm tiếp tục thực hiện chính sách nhằm chủ động hội nhập một cách có hiệu quả nhất. Thực tế của 30 năm đổi mới đã cho thấy, những gì nước ta đạt được là kết quả của việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và quá trình hiện thực các chính sách, chủ trương đó thành hành động cụ thể. Vì vậy, với chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được phát triển trong Văn kiện đại hội XII là cơ sở để chúng ta tin tưởng vào những kết quả đạt được của hội nhập kinh tế trong thời gian tới.
ThS. NGUYỄN HỮU VINH
Học viện Ngoại giao