1. Tầm quan trọng của công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở các tỉnh Nam Bộ
Công tác quản lý đảng viên là nội dung quan trọng trong xây dựng đội ngũ đảng viên; là cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nắm chắc, đánh giá đúng phẩm chất, năng lực, nhận xét, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, phân công giao nhiệm vụ và sàng lọc đảng viên, góp phần bảo vệ chính trị nội bộ, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng mạnh là do mỗi một chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do mỗi một đảng viên ra sức làm trọn 10 nhiệm vụ đã ghi trong Điều lệ Đảng”, và Bác cũng đã từng căn dặn: “Mỗi đảng viên tốt, mỗi chi bộ tốt là Đảng được mạnh lên một phần; đảng viên kém, chi bộ kém là những khâu yếu của Đảng, điều đó nói chung là đúng, nói riêng với các chi bộ ở các cơ quan chung quanh Trung ương càng đúng”. Do vậy, thực hiện tốt công tác quản lý đảng viên là trực tiếp góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Ngược lại, nếu quản lý đảng viên thiếu chặt chẽ sẽ làm cho các nguyên tắc của Đảng thực hiện không nghiêm, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng bị giảm sút, thậm chí có tổ chức đảng còn mất vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Gần thế kỷ qua, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trong đó có công tác quản lý đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”1.
Những năm gần đây, do yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ chính trị thời kỳ đổi mới, công tác đảng viên nói chung và quản lý đảng viên nói riêng đã được các cấp ủy đặc biệt quan tâm và đã đạt được kết quả quan trọng góp phần to lớn vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đại hội đại hiểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Công tác quản lý đảng viên có đổi mới. Thủ tục cho đảng viên được giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng chặt chẽ hơn. Việc chuyển sinh hoạt đảng, nhất là chuyển sinh hoạt đảng ra ngoài nước được đơn giản hóa nhưng vẫn bảo đảm đúng nguyên tắc và tạo thuận lợi cho đảng viên. Việc giải quyết đảng tịch được Trung ương hướng dẫn cụ thể hơn và được các cấp ủy thực hiện nghiêm túc; trong quá trình giải quyết đảng tịch có sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp trên và cấp dưới, một số trường hợp đặc biệt khó khăn, cấp tỉnh, cấp huyện đã trực tiếp về chi bộ, cấp ủy cơ sở nơi đảng viên đang sinh hoạt hoặc đã từng sinh hoạt nắm tình hình và giải quyết kịp thời”2.
Tuy nhiên, trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường và những tiêu cực khác trong xã hội, bên cạnh phần lớn đảng viên kiên định vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ và không ngừng trưởng thành, đóng góp to lớn vào những thành tựu công cuộc đổi mới thì một bộ phận đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyến hóa”. Nhiều trường hợp đã lợi dụng chức quyền để vun vén cá nhân, làm giàu bất chính, cơ hội, thực dụng, chạy chức, chạy quyền, tìm mọi thủ đoạn nhằm thực hiện tham vọng cá nhân. Công tác quản lý đảng viên ở nhiều cấp ủy, tổ chức đảng còn nhiều yếu kém, bất cập nhất là về nội dung, hình thức, phương pháp quản lý đảng viên trong điều kiện mới. Những vụ án tiêu cực liên quan đến cán bộ, đảng viên đã được xử lý trong nhiệm kỳ Đại hội XII và giữa nhiệm kỳ Đại hội XIII là những minh chứng điển hình về tình về tình trạng yếu kém trong công tác quản lý đảng viên. Những ưu điểm và hạn chế nêu trên về đội ngũ đảng viên có liên quan mật thiết đến công tác quản lý đảng viên của các cấp ủy, tổ chức đảng trong và ngoài khu vực Nhà nước.
Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng ta đang đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp và quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (DNNKVNN). Nghị quyết số 21- NQ/TW, ngày 16/6/2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới đã đề ra quan điểm: Coi trọng chất lượng đảng viên, nhất là ở địa bàn khó khăn, khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vùng dân tộc thiểu số. Trong đó, đối với khu vực kinh tế ngoài nhà nước cần phải tăng cường xây dựng các tổ chức đảng và đảng viên để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Nam Bộ là một khu vực nằm ở miền Nam Việt Nam, bao gồm hai vùng chính: Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (còn gọi là Đồng bằng sông Cửu Long). Khu vực này bao gồm 17 tỉnh và 2 thành phố trực thuộc trung ương. Cùng với cả nước, các tỉnh/thànhNam Bộ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Các khu công nghiệp, khu kinh tế tập trung và các khu vực kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ nhanh, quy mô ngày càng lớn và có đóng góp ngày càng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết việc làm cho người lao động.
Các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN đã có vai trò rất lớn trong sự phát triển của doanh nghiệp và địa phương. Việc xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN là rất cần thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Thời gian qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các tổ chức đảng trong các DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ phát triển còn chậm, hiệu quả hoạt động còn thấp. Công tác phát triển đảng viên gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc quản lý đảng viên còn bị coi nhẹ hoặc lúng túng, chưa có hiệu quả và chưa trở thành nền nếp. Nguyên tắc, quy trình, thủ tục quản lý đảng viên còn bị vi phạm. Nhiều đảng viên không chuyển đảng về tham gia sinh hoạt tại nơi làm việc do ở đó chưa thành lập được chi bộ hoặc do cố tình giấu diếm tổ chức, không dám công khai mình là đảng viên. Do không được tổ chức đảng quản lý có hiệu quả nên việc phát huy vai trò của đảng viên hết sức hạn chế và uy tín của đảng viên trong các DNNKVNN bị giảm sút, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong các DNNKVNN bị mờ nhạt. Đã có đảng viên là chủ các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước vi phạm pháp luật bị cơ quan, chức năng, bắt giữ, xử lý, cấp ủy mới biết.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nói trên có nhiều, nhưng chủ yếu là: (1) Sự chỉ đạo của một số cấp ủy đảng chưa thực sự quyết liệt. Các ban tham mưu, tổ chức đảng các cấp chưa dành nhiều thời gian và công sức cho việc triển khai công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước; (2) Một số đảng bộ, chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước vẫn còn tình trạng thụ động, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, chưa có biện pháp cụ thể thực hiện nhiệm vụ của công tác quản lý đảng viên. Công tác tuyên truyền, quán triệt nghị quyết và phổ biến pháp luật cho đảng viên và chủ doanh nghiệp của một số cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể vẫn chưa thường xuyên, thiếu đồng bộ; (3) Việc chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ của cấp ủy cấp trên trực tiếp có lúc chưa kịp thời; (4) Một số đảng viên chưa tự giác, thậm chí thiếu bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu trách nhiệm trong công tác, lơ là trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; (5) Một số cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn tỉnh không nắm chắc được các nội dung và phương thức của công tác quản lý đảng viên,… Chính vì vậy, tăng cường công tác quản lý đội ngũ đảng viên trong các DNNKVNN ở các tỉnh/thành Nam Bộ là một trong những yêu cầu rất quan trọng trong thời gian tới.
2. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoàii khu vực nhà nước ở các tỉnh Nam Bộ trong thời gian tới
Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng về tầm quan trọng của công tác quản lý đảng viên
Giải pháp quan trọng hàng đầu, xuyên suốt quá trình quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước ở các tỉnh Nam Bộ là nâng cao nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng. Nâng cao nhận thức cho cấp uỷ, tổ chức đảng về quản lý đảng viên nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động. Khắc phục được những nhận thức lệch lạc, không đầy đủ về công tác quản lý đảng viên. Thực hiện vấn đề này, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nhận thức đầy đủ sự cần thiết phải tăng cường quản lý đảng viên; yêu cầu, nội dung, phương thức quản lý đảng viên, trên cơ sở đó chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Các cấp ủy, tổ chức đảng cũng phải nhận thức được rằng, việc buông lỏng quản lý đảng viên là gián tiếp để đảng viên dễ tha hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật đảng.
Ngoài ra, cần tuyên truyền thật cụ thể, đầy đủ để các cấp uỷ, chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước nhận thức đúng, đầy đủ yêu cầu, nội dung, phương thức quản lý đảng viên để từ đó có cơ sở, nêu cao ý thức tự giác để hành động có hiệu quả. Cần nhận thức thật sự sâu sắc rằng việc quản lý đảng viên sẽ giúp cho mỗi đảng viên tiến bộ, đóng góp vào sự phát triển của tổ chức. Việc buông lỏng quản lý đảng viên sẽ là cách gián tiếp gây ra tình trạng đảng viên dễ bị tha hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật đảng, thậm chí suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Cấp ủy, chi bộ cần xác định rõ trách nhiệm của tập thể và người đứng đầu cấp ủy, chi bộ về công tác quản lý đảng viên, nhất là công tác kiểm tra, giám sát; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với tự phê bình và phê bình. Trong quản lý cần bám sát nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng, của đảng viên; phát huy đầy đủ vai trò giám sát của quần chúng với đảng viên.
Thứ hai, các cấp ủy, tổ chức đảng phải quán triệt và thực hiện đầy đủ các quy định của Đảng về quản lý đảng viên
Để công tác quản lý đảng viên đi vào nền nếp, đúng nguyên tắc, thực chất, hiệu quả. Về tư tưởng chính trị của đảng viên, thể hiện ở lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, ý thức, thái độ học tập lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng; về diễn biến tư tưởng, tâm trạng, những băn khoăn, kiến nghị của đảng viên; ý thức cảnh giác, đấu tranh các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Về phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên, thể hiện ở ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về thực hiện quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm; về nêu gương thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm”, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, vụ lợi, trung bình chủ nghĩa. Về tổ chức, kỷ luật, thể hiện ở việc chấp hành quy định của Đảng về sinh hoạt đảng, đóng đảng phí; về ý thức tự giác, thẳng thắn, trung thực, khách quan, công tâm trong tự phê bình và bình và trong 3 mối quan hệ cơ bản của đảng viên (với công việc, với những người xung quanh, với chính mình)… Về ý thức, tinh thần trách nhiệm tham gia các phong trào thi đua do tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội phát động. Về mối quan hệ với Nhân dân, khả năng tập hợp Nhân dân thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chủ trương của địa phương, cơ quan, đơn vị; giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp ủy địa phương nơi cư trú. Về kết quả, chất lượng thực hiện chức trách, nhiệm vụ do tổ chức đảng phân công.
Ngoài ra, để quản lý tốt tư tưởng đảng viên, cấp ủy, tổ chức đảng kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng, tâm trạng, thái độ của mỗi đảng viên; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn những đảng viên biểu hiện lệch lạc về tư tưởng; ý thức coi thường học tập lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng. Chi bộ phải nắm chắc diễn biến tư tưởng, ý thức chấp hành chế độ sinh hoạt, phải hiểu điều kiện, hoàn cảnh gia đình và các mối quan hệ của đảng viên, phát hiện những khó khăn, biểu hiện lệch lạc sai sót để uốn nắn kịp thời. Đặc biệt phải hướng dẫn cụ thể cho đảng viên thực hiện những quy định của Trung ương về công tác quản lý đảng viên: Quy định những điều đảng viên không được làm, quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên...
Thứ ba, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
Cần duy trì nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ định kỳ theo Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW, ngày 06/7/2018 của Ban Tổ chức Trung ương và đã được cụ thể hóa thành Hướng dẫn số 02-HD/BTCTU, ngày 23/8/2021 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về một số vấn đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu tổ chức Đảng nói chung và trong công tác quản lý đảng viên. Nội dung sinh hoạt chi bộ hằng tháng ngoài việc đánh giá kết quả công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi bộ và nhiệm vụ của đảng viên (không bàn sâu việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp); công tác tư tưởng; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ; lãnh đạo các tổ chức chính trị-xã hội; công tác xây dựng tổ chức đảng… còn phải gắn với đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Chi bộ phải là nơi để đảng viên báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng và thực hiện nghị quyết. Vì vậy, sinh hoạt chi bộ phải bảo đảm được ba tính chất: lãnh đạo, giáo dục, chiến đấu. Trong sinh hoạt phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai và minh bạch theo quy chế làm việc. Trong sinh hoạt phải nâng cao chất lượng tự phê bình, phê bình, đánh giá xếp loại đảng viên với tinh thần thẳng thắn, trung thực, khách quan, không nể nang, né tránh. Khi phát hiện đảng viên có dấu hiệu vi phạm hay những biểu hiện lệch lạc trong lời nói, việc làm, cần phải được làm rõ để ngăn chặn kịp thời. Ngoài ra, mỗi đảng viên, nhất là người đứng đầu phải liên hệ, đánh giá việc thực hiện nội dung đã cam kết hàng năm; về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương theo quy định của Đảng.
Thứ tư, nâng cao tính thực chất trong đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên
Đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm là việc làm bắt buộc theo quy định của Đảng, qua đó các cấp ủy đảng biết được thực trạng đội ngũ đảng viên để có những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng đảng viên. Để đánh giá đúng thực chất chất lượng đội ngũ đảng viên, việc đánh giá, phân loại đảng viên phải tuân thủ quy trình các bước chặt chẽ theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền cấp trên, bảo đảm công tâm, khách quan; phải căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ đảng viên do Điều lệ Đảng quy định và chức trách, nhiệm vụ được giao; thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong tổ chức đảng. Việc đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên là dịp để mỗi đảng viên tự soi, tự sửa mình, qua đó phát huy những ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, thiếu sót.
Thứ năm, nâng cao ý thức tự quản của đảng viên
Đây là biện pháp quan trọng thể hiện tính tích cực, chủ động trong công tác quản lý đảng viên của các tổ chức đảng. Quan hệ xã hội của mỗi đảng viên ngày càng đa dạng, phức tạp, các biện pháp của tổ chức dù có chặt chẽ đến đâu, nhưng từng đảng viên không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì tổ chức cũng không thể bao quát và đi sâu quản lý được hết các quan hệ xã hội của họ, bởi vậy phải nâng cao ý thức tự quản lý của đảng viên là cán bộ, người lao động. Để đảng viên có ý thức tự quản lý tốt, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, tinh thần trách nhiệm đối với Đảng và doanh nghiệp cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để mỗi đảng viên hiểu được việc tự do trong khuôn khổ, sống và làm việc theo qui định của pháp luật và nội quy, quy chế của công ty là kim chỉ nam trong hành động để bảo vệ mình và bảo vệ doanh nghiệp.
Để nâng cao ý thức tự quản của đảng viên, ngoài sự hỗ trợ của tổ chức đảng, từng đảng viên cần phải kiên định lập trường chính trị, kịp thời chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc, sai trái; phải tự khép mình vào tổ chức, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, kỷ cương của tổ chức; tích cực tham gia các hoạt động để tự hoàn thiện mình; phải gương mẫu và luôn tiên phong với mọi phong trào cách mạng theo phương châm “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Ngoài ra, mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch phấn đấu và chương trình tự quản lý, rèn luyện trên cơ sở quán triệt nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nghị quyết của chi bộ và nhiệm vụ được giao cũng như điểm mạnh, điểm yếu của từng cá nhân đảng viên. Kế hoạch phấn đấu phải cụ thể, chỉ rõ nội dung, thời gian, được thông qua chi ủy, chi bộ để bảo đảm sự chặt chẽ, nghiêm túc và làm cơ sở để chi ủy, chi bộ theo dõi, kiểm tra, giám sát cũng như tạo điều kiện cho từng cá nhân thực hiện tốt kế hoạch đề ra.
Thứ sáu, cấp ủy cấp trên định kỳ có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc quản lý đảng viên của chi bộ
Cấp ủy cấp trên định kỳ có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc quản lý đảng viên của các chi bộ, tổ chức đảng cấp dưới. Kiểm tra, giám sát cần tập trung vào những nội dung chính về diễn biến tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, phong cách lối sống của đảng viên, việc xây dựng nghị quyết và triển khai thực hiện công tác quản lý đảng viên, xây dựng quy chế, phân công nhiệm vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của Trung ương. Kịp thời biểu dương, khen thưởng những tổ chức đảng làm tốt, những điển hình tốt để nhân ra diện rộng, chấn chỉnh kịp thời những tổ chức đảng quản lý đảng viên còn thiếu sót, khuyết điểm.
Thứ bảy, thực hiện tốt Quy định số 213-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú
Hằng năm, cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên công tác cần chủ động giới thiệu đảng viên với cấp ủy cơ sở nơi đảng viên cư trú nhận xét về việc thực hiện nghĩa vụ công dân ở địa phương và khi cần thiết, tiến hành trao đổi ý kiến với đại diện cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang cư trú để nắm tình hình đảng viên. Mặt khác, cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên cư trú cần thông báo kịp thời với cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đang công tác về tình hình đảng viên thực hiện nhiệm vụ ở nơi cư trú; đề nghị biểu dương những đảng viên thực hiện tốt và góp ý kiến với những đảng viên chưa thực hiện tốt hoặc có thiếu sót, khuyết điểm ở nơi cư trú.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr.228-229.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr.245.
ThS. TRỊNH THỊ PHƯỢNG
Học viện Chính trị khu vực II