Đã 48 năm trôi qua, kể từ ngày 30/4 lịch sử, song những ký ức và niềm tự hào về chiến thắng hào hùng, oanh liệt của quân và dân ta còn vẹn nguyên trong mỗi người dân Việt Nam. Đặc biệt, những bài học kinh nghiệm quý báu được đúc rút qua cuộc kháng chiến vĩ đại là tài sản vô giá của dân tộc và là trách nhiệm của chúng ta hôm nay, đó là tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát huy vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta”1, “trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta”2. Phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ 25 (khóa III), đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: “Để thắng Mỹ, không những phải có đường lối chính trị đúng mà còn phải có đường lối quân sự đúng” 3.
Đường lối quân sự của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được hình thành trên cơ sở nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng và tổ chức quân đội cách mạng... kết hợp với truyền thống quân sự quý báu của dân tộc được vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó là sự kế thừa kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp, được bổ sung, phát triển và hoàn thiện từng bước trong quá trình chiến tranh. Là một bộ phận của đường lối cách mạng, đường lối quân sự không chỉ đơn thuần là những quan điểm, tư tưởng quân sự, chủ trương, giải pháp trong lĩnh vực quân sự, trong đấu tranh vũ trang, mà có nội hàm rộng lớn hơn, gắn liền với phương pháp cách mạng, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, các vấn đề về chiến lược, sách lược nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân nhằm hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta tiến hành chiến tranh nhân dân với nội dung và hình thức phong phú, sáng tạo: tiến hành chiến tranh nhân dân trên cả hai miền Nam - Bắc; kết hợp tiến công ở miền Nam và bảo vệ miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc với tăng cường sức mạnh về mọi mặt cho miền Nam, phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường Nam, Bắc của Việt Nam với chiến trường hai nước bạn Lào và Camphuchia. Thực hiện chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã động viên, tổ chức toàn dân tiến hành chiến tranh với hai lực lượng cơ bản là lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, hai hình thức đấu tranh cơ bản là đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công với nổi dậy, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ...
Tư tưởng nhất quán của đường lối quân sự trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là chiến lược tiến công. Thực hiện tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn - đồng bằng, thành thị) với phương pháp đánh địch và hình thức đấu tranh phù hợp điều kiện cụ thể của từng vùng. Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, thực hành tiến công địch một cách toàn diện, liên tục, đều khắp, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ bộ phận đến toàn cục, phát triển tuần tự, xen kẽ với những bước nhảy vọt, đánh bại các chiến lược, các bước leo thang mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ. Với việc thực hiện triệt để tư tưởng chiến lược tiến công, quân và dân ta luôn nắm quyền chủ động về chiến lược, chiến dịch, có điều kiện thực hiện từng bước chuyển hóa thế trận, so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến trường theo hướng có lợi cho ta, tạo và nắm chắc thời cơ tiến lên tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn nhất, có lợi nhất.
Phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân là nội dung cơ bản, biểu hiện tập trung nhất của đường lối quân sự, được thể hiện rõ nét trong kháng chiến chống Mỹ. Đó là phương thức kết hợp chặt chẽ chiến tranh chính quy của bộ đội chủ lực với chiến tranh nhân dân địa phương, do lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự của lực lượng vũ trang ba thứ quân với nổi dậy giành quyền làm chủ của lực lượng chính trị quần chúng. Với phương thức đó, quân và dân ta đã phát huy được sức mạnh của toàn dân, thế mạnh của lực lượng vũ trang, thực hiện đánh địch ở nhiều quy mô khác nhau với nhiều hình thức tác chiến. Để thực hiện phương thức trên với quy mô ngày càng lớn, trình độ ngày càng cao, Đảng ta coi trọng xây dựng kết hợp giữa lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang ba thứ quân (bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ), trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của bộ đội chủ lực. Trong những năm cuối của cuộc chiến tranh (năm 1973, 1974), ta đã tổ chức được nhiều binh đoàn chủ lực với các thành phần binh chủng kỹ thuật hiện đại, có đủ khả năng tiến hành chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Các binh đoàn chủ lực không ngừng phát triển, lớn mạnh cả về quy mô tổ chức biên chế lực lượng và trang bị trong quá trình chiến đấu, là một trong những cơ sở quan trọng để Đảng ta hạ quyết tâm chiến lược: mở cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực tiễn sinh động của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta, đặc biệt là Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã khẳng định đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng ta. Đường lối đó có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhất là trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Tình hình thế giới, khu vực hiện nay cho thấy, mặc dù xu thế chủ đạo là hòa bình, hợp tác, phát triển, song bên cạnh đó cũng có những diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Chiến tranh cục bộ, xung đột quân sự, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Đối với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Chúng tăng cường mở rộng sự phối hợp lực lượng phản động ở trong và ngoài nước, lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình đổi mới đất nước và những khó khăn, thách thức trong tiến trình hợp tác, hội nhập kinh tế của ta để chống phá toàn diện trên các lĩnh vực, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gây mất ổn định chính trị, tạo cớ can thiệp dưới các hình thức.
Trong bối cảnh đó, hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai nhiệm vụ đó có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng đất nước sẽ tạo nguồn lực vật chất, tinh thần to lớn, là cơ sở, nền tảng vững chắc bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc sẽ bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững. Vì vậy, xây dựng đất nước phải được thực hiện đồng thời và gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc, tuyệt đối không được coi nhẹ nhiệm vụ nào.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải nắm vững tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc của Đảng, trên cơ sở đó có giải pháp phù hợp với tình hình chung và điều kiện cụ thể của đất nước. Theo đó, cần nhận thức rõ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không đơn thuần là bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn phải gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nền văn hóa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia - dân tộc… Do đó, yêu cầu đặt ra là phải phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân và cả hệ thống chính trị; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp chặt chẽ kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại. Tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là sự nghiệp quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt.
Trên cơ sở quán triệt đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết nhấn mạnh, tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó phải là một nền quốc phòng mang tính nhân dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Nhà nước. Với những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể khẳng định rằng, nền quốc phòng mà chúng ta xây dựng sẽ ngày càng hiện đại, khai thác hiệu quả mọi nguồn lực, tiềm lực của đất nước trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân cần coi trọng xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với lực lượng, thế trận an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại. Sự gắn kết thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân biểu hiện ở sự đan xen nhau trong triển khai tổ chức, bố trí lực lượng và phối hợp hoạt động của hai lực lượng. Việc bố trí thế trận đó phải bảo đảm sử dụng được nhân lực, vật lực của cả quốc phòng và an ninh một cách hợp lý nhất trên địa bàn cả nước, từng khu vực, mỗi địa phương, mỗi ngành trong mọi tình huống. Đồng thời, phải coi trọng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh/thành phố, xây dựng căn cứ hậu phương các cấp, xây dựng các công trình quốc phòng, quan tâm đúng mức đến công tác phòng thủ dân sự...
Tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đối với quân đội nhân dân, phải chăm lo xây dựng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Tập trung đầu tư và phát triển công nghiệp quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhằm nâng cao khả năng sản xuất và bảo đảm vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, quân đội, nhất là đối với các quân chủng, binh chủng kỹ thuật, những đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Trong quá trình xây dựng quân đội, phải coi trọng cả lực lượng thường trực và dự bị động viên, từng bước rút ngắn khoảng cách về trình độ, nhất là khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dự bị động viên so với lực lượng thường trực.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quyết tâm, nỗ lực của toàn dân, toàn quân cùng với việc phát huy truyền thống vẻ vang và những kinh nghiệm quý báu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trong đó, tích cực tuyên truyền, giáo dục quan điểm của Đảng ta về đối tác, đối tượng. Làm tốt công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân, kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận, không để kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động. Chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn, không để lộ, lọt thông tin bí mật quốc gia; làm rõ những nội dung, biện pháp chỉ đạo, triển khai thực hiện, nhất là công tác giáo dục chính trị, quản lý, rèn luyện kỷ luật, bảo vệ chính trị nội bộ.
Đồng thời, chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chủ động phát hiện những biểu hiện sai trái, mơ hồ, mất cảnh giác; đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những việc làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, công an. Chủ động xây dựng ““thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”4. Thực hiện giữ nước từ khi nước chưa nguy; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra các đột biến… như Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ.
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 37, tr. 472, 484, 341.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 49.
ThS. ĐẶNG CÔNG THÀNH, ThS. NGUYỄN QUANG BÌNH
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng