Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò then chốt, mang tính quyết định đối với sự thành bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"1. Từ quan điểm đó, Người đặt công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ ở vị trí đặc biệt quan trọng, coi đó là "công việc gốc của Đảng". Trong điều kiện hiện nay, khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ càng phải được nhìn nhận đầy đủ, toàn diện và có bước đổi mới căn bản, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không phải là một khâu tách biệt, mà là bộ phận hữu cơ của công tác cán bộ, đồng thời là một khâu quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Thực tiễn cho thấy, trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, sự trưởng thành, vững mạnh của đội ngũ cán bộ cũng gắn liền với chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Nếu thiếu đi nền tảng tri thức lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực thực tiễn, cán bộ khó có thể hoàn thành nhiệm vụ, thậm chí còn nảy sinh những hạn chế, tiêu cực ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bước sang thời kỳ phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ càng có ý nghĩa sống còn. Đại hội XIII của Đảng đã xác định: "Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, coi trọng cả đức và tài"2. Công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới đòi hỏi cấp thiết việc nâng cao nhận thức lý luận, đồng thời đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả thực tiễn.
1. Cơ sở lý luận và tư tưởng chỉ đạo về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không phải là một công việc tự phát, theo ý muốn chủ quan của một tổ chức, cá nhân, mà là một quá trình khoa học được xây dựng trên nền tảng lý luận vững chắc, xuất phát từ yêu cầu khách quan của cách mạng và sự phát triển xã hội, trong đó lấy học thuyết Mác - Lênin về vai trò của con người trong lịch sử làm nền tảng, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác cán bộ qua các thời kỳ làm định hướng xuyên suốt.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đặt nền móng lý luận cho nhận thức về vai trò của cán bộ và yêu cầu đào tạo cán bộ. C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định, sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bằng chính lực lượng của giai cấp công nhân3. Muốn vậy, phải có những hạt nhân tiên phong, những con người đại diện cho trí tuệ và bản lĩnh chính trị của giai cấp, có khả năng tổ chức, lãnh đạo quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Nga, V.I. Lênin đã nhiều lần chỉ rõ sự thiếu hụt cán bộ là một trong những nguyên nhân làm suy yếu phong trào, đồng thời nhấn mạnh: nếu không có một đội ngũ cán bộ được rèn luyện, đào tạo bài bản, thì dù có đường lối đúng đắn, cách mạng cũng khó có thể thành công4. Lý luận đó chỉ ra một chân lý: cán bộ không tự nhiên mà có, mà là kết quả của quá trình huấn luyện, rèn luyện lâu dài, gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách mạng.
Kế thừa và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xây dựng một hệ thống tư tưởng toàn diện về cán bộ và công tác cán bộ, trong đó nổi bật là tư tưởng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Ngay từ những ngày đầu sáng lập Đảng, Người đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" và "Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng"5. Điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan niệm về đào tạo cán bộ một cách toàn diện, kết hợp hài hòa giữa "hồng" và "chuyên", giữa "đức" và "tài'. Người cho rằng, có đức mà không có tài thì khó hoàn thành nhiệm vụ, có tài mà không có đức thì không thể dùng được6. Vì vậy, công tác đào tạo cán bộ không chỉ là việc nâng cao trình độ chuyên môn, mà trước hết và trên hết là rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, bởi đây là "gốc" để cán bộ có thể hoàn thành trọng trách được giao. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh tính thực tiễn trong đào tạo cán bộ. Người phê phán cách học hình thức, hời hợt, chỉ dừng lại ở lý thuyết. Theo Người, đào tạo cán bộ không thể tách rời thực tiễn, phải kết hợp chặt chẽ "học đi đôi với hành", vừa học trong nhà trường, vừa học nhân dân, rèn luyện trong công việc thực tế. Chính sự kết hợp đó mới đào luyện nên những cán bộ có đủ phẩm chất, trí tuệ và bản lĩnh.
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đã từng bước khẳng định và phát triển quan điểm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp với điều kiện, yêu cầu của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Trong thời kỳ đầu cách mạng, yêu cầu đặt ra là đào tạo những cán bộ kiên trung, có uy tín, năng lực vận động, tập hợp, hướng dẫn quần chúng tham gia trận tuyến cách mạng. Bước sang thời kỳ đổi mới, phát triển đất nước, trọng tâm của công tác đào tạo, bồi dưỡng được chuyển sang xây dựng đội ngũ cán bộ vừa có phẩm chất chính trị, vừa có trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, từ Đại hội X (năm 2006), Đảng ta nhấn mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ, coi đào tạo, bồi dưỡng là giải pháp mang tính đột phá7. Đến Đại hội XII (năm 2016), yêu cầu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, gắn chặt với quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự kế thừa và phát triển bền vững8. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo khung năng lực, tiêu chuẩn chức danh, chú trọng cả về lý luận chính trị, đạo đức và kỹ năng lãnh đạo, quản lý trong điều kiện hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư9.
Quan điểm của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thể hiện tính nhất quán, không ngừng phát triển, hoàn thiện, trở thành kim chỉ nam cho quá trình triển khai hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thực tiễn suốt những năm qua và là cơ sở phương pháp luận định hướng cho công tác quan trọng này trong thời kỳ phát triển mới.
2. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Việt Nam hiện nay
2.1. Những thành tựu nổi bật
Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thứ nhất, hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ Trung ương đến địa phương ngày càng hoàn thiện, từng bước hiện đại hóa. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh giữ vai trò trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý; cùng với đó là hệ thống các học viện, trường chính trị tỉnh, thành phố, các cơ sở đào tạo chuyên ngành thuộc các bộ, ngành. Đến nay, cả nước có 34 trường chính trị cấp tỉnh, thành phố, hàng chục cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành về chính trị, hành chính, quản lý nhà nước, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, tư pháp, quốc phòng, an ninh… tạo nên mạng lưới hoàn chỉnh, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ10.
Thứ hai, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng từng bước được đổi mới theo hướng gắn lý luận với thực tiễn, chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, tư duy chiến lược và kỹ năng xử lý tình huống. Nhiều chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới cho cán bộ diện Trung ương quản lý được tổ chức; các lớp bồi dưỡng theo chức danh, vị trí việc làm được triển khai thường xuyên, thiết thực.
Thứ ba, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng ngày càng đa dạng, có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Bên cạnh các hình thức học tập trực tiếp, nhiều cơ sở đã triển khai mạnh mẽ hình thức đào tạo trực tuyến, kết hợp (blended learning), tận dụng công nghệ số, ngân hàng học liệu điện tử…, vừa mở rộng cơ hội học tập, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả, vừa trang bị cho học viên kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.
Thứ tư, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng được kiện toàn cả về số lượng và chất lượng. Trình độ đội ngũ giảng viên lý luận chính trị được nâng cao; nhiều nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành đã trực tiếp tham gia giảng dạy, nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.
Những thành quả đạt được là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ. Đến năm 2023, 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở các cơ quan Trung ương có trình độ đại học trở lên, trong đó hơn 70% có trình độ sau đại học; ở cấp tỉnh và cấp huyện, tỷ lệ này lần lượt đạt trên 95% và 85%11. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận, cho thấy hiệu quả tích cực của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời gian qua.
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành quả đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn còn không ít hạn chế, bất cập.
Một là, nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nhiều nơi còn chậm đổi mới, nặng về lý thuyết, thiếu cập nhật kiến thức, kỹ năng mới về quản trị hiện đại, kinh tế số, quản trị công, hội nhập quốc tế. Một số chương trình chưa thật sự sát với yêu cầu thực tiễn, chưa đáp ứng kịp thời đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số.
Hai là, phương pháp đào tạo ở nhiều cơ sở còn thiên về truyền thụ một chiều, chưa phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo và khả năng tự học, tự nghiên cứu của học viên. Việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa đồng bộ, chưa khai thác hết tiềm năng của mô hình học tập số hóa.
Ba là, chất lượng đội ngũ giảng viên tuy đã có nhiều chuyển biến, nhưng chưa đồng đều giữa các cơ sở, đặc biệt là ở các trường chính trị cấp tỉnh. Số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ, có năng lực nghiên cứu, am hiểu thực tiễn còn hạn chế.
Bốn là, công tác quản lý, đánh giá sau đào tạo chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế giám sát và kiểm định chất lượng độc lập. Việc gắn kết quả học tập, rèn luyện với công tác quy hoạch, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ ở nhiều nơi còn hình thức, chưa tạo động lực mạnh mẽ cho học viên.
Năm là, nguồn lực đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế. Cơ sở vật chất ở một số trường chính trị, học viện, cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa; kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa tương xứng với vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ này.
Các hạn chế, bất cập bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, đất nước ta đang trong quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, đòi hỏi cao về năng lực quản trị hiện đại trong khi nguồn lực đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn hạn chế. Về chủ quan, công tác nghiên cứu lý luận, dự báo về nhu cầu cán bộ chưa thật sự đi trước một bước, chưa sát với nhu cầu thực tiễn; sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và cơ quan quản lý cán bộ chưa thật sự chặt chẽ. Một bộ phận giảng viên, học viên thiếu quyết tâm phấn đấu, chưa tự học tập, rèn luyện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, vẫn còn hiện tượng học để “đủ chuẩn” đề bạt thay vì học để nâng cao năng lực thực chất.
3. Yêu cầu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ phát triển mới
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế đặt ra yêu cầu mới
Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, trong bối cảnh có nhiều thời cơ và thách thức đan xen.
Về bối cảnh quốc tế, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ và làm biến đổi căn bản tư duy phát triển, phương thức quản trị, điều hành kinh tế - xã hội của các quốc gia. Nhiều vấn đề an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống ngày càng đặt ra gay gắt, nhất là biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh năng lượng, an ninh mạng… Cạnh tranh khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài trở thành xu hướng toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia phải đổi mới chiến lược phát triển khoa học, công nghệ gắn với giáo dục, đào tạo, trong đó đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Về bối cảnh trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song cũng đang phải đối diện với những hạn chế về chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và những điểm nghẽn về thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực, trong đó, hạn chế về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là một điểm nghẽn có ý nghĩa chi phối. Đổi mới, nâng cao toàn diện chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trở thành một khâu trong đột phá chiến lược về nguồn nhân lực.
3.2. Yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ
Mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, bứt phá toàn diện, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 204512 đặt ra những yêu cầu rất cao về đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội gũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ.
Yêu cầu rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ. Trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến rất nhanh, rất phức tạp, nhiều biến động, khó đoán định, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần đặc biệt chú trọng giáo dục, rèn luyện học viên kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định, phát triển sáng tạo và bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng. Vững vàng, kiên định trên những cơ sở khoa học vững chắc, không rơi vào giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc cực đoan, nóng vội, duy ý chí.
Yêu cầu trang bị cho cán bộ tầm nhìn, tư duy chiến lược và năng lực lãnh đạo, quản lý, quản trị hiện đại. Để đất nước có thể tiến kịp, tiến cùng thời đại, từng bước sánh vai với các cường quốc năm châu, đội ngũ cán bộ cần được trang bị tầm nhìn toàn cầu, nhận biết xu thế phát triển và những giá trị thời đại; đồng thời phải có tư duy chiến lược, năng lực hoạch định chính sách, quản trị phát triển, kỹ năng ra quyết định trong điều kiện phức tạp, bất định. Đây là yêu cầu rất cao, thách thức rất lớn đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ phát triển mới.
Yêu cầu giúp cán bộ tiếp thu, ứng dụng tri thức, phương pháp, kỹ năng mới về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một trong những đột phá chiến lược13. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải chú trọng trang bị cho học viên tri thức số, kỹ năng quản trị, ứng dụng dữ liệu và công nghệ số trong mọi hoạt động, tạo động lực nền tảng cho phát triển.
Yêu cầu trang bị cho cán bộ tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng hội nhập quốc tế và quản trị toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam ngày càng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia ngày càng sâu vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP…), hòa nhập với mạng giá trị và cung ứng toàn cầu. Thực tiễn đó đòi hỏi cán bộ phải được trang bị tri thức về luật pháp quốc tế, về ngoại ngữ, văn hóa đối ngoại, kỹ năng đàm phán, xử lý quan hệ quốc tế, có khả năng làm việc hiệu quả trong môi trường quốc tế.
Yêu cầu giáo dục, rèn luyện đạo đức công vụ, trách nhiệm nêu gương. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn với việc rèn luyện đạo đức cách mạng, tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa”. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Công tác cán bộ phải trả lời câu hỏi “Làm sao phải có đội ngũ cán bộ có giác ngộ, có tâm huyết vì nước, vì dân, vì sự nghiệp của Đảng”14.
3.3. Yêu cầu về đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng
Để đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần có những đổi mới căn bản về phương thức. Cụ thể:
Chuyển từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo năng lực và vị trí việc làm, lấy nhu cầu thực tiễn làm căn cứ. Điều này phù hợp với xu thế quản lý nhân lực hiện đại, đồng thời tạo ra sự linh hoạt trong nội dung và phương pháp giảng dạy.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: xây dựng hệ thống học liệu số quốc gia, áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn để cá nhân hóa việc học, tổ chức các lớp học trực tuyến mở (MOOCs), kết hợp đào tạo truyền thống và trực tuyến (blended learning).
Tăng cường đào tạo gắn với thực tiễn: kết hợp học ở trường với đi thực tế cơ sở, trải nghiệm kỹ năng xử lý các tình huống phát sinh trong thực tiễn; đi nghiên cứu tại nước ngoài, học tập kinh nghiệm quốc tế. Phương châm “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn liền với thực tiễn” phải trở thành sợi chỉ đỏ trong phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Xây dựng cơ chế kiểm định, đánh giá độc lập chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, lấy hiệu quả hoạt động thực tiễn làm thước đo chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; gắn kết quả học tập với quy hoạch, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ. Đây là khâu quan trọng để khắc phục tình trạng “học để có bằng cấp” thay vì học để nâng cao năng lực thực chất.
4. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ mới
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu phải “đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”15. Hiện thực hóa định hướng của Đảng đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ tư duy và nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong một thời gian dài, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thường được nhìn nhận như những khóa học bổ sung, cập nhật kiến thức, nặng về lý thuyết và có phần hình thức. Nhận thức như vậy không còn phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới. Cần khẳng định rõ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính là quá trình phát triển năng lực toàn diện, vừa rèn luyện phẩm chất chính trị, vừa bồi đắp tri thức chuyên môn, kỹ năng quản lý, kỹ năng lãnh đạo, vừa hình thành bản lĩnh ứng xử trong bối cảnh toàn cầu hóa. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong. Muốn có cán bộ tốt thì phải huấn luyện, đào tạo họ một cách chu đáo”16. Quan điểm của Người cần được nhận thức sâu sắc hơn trong giai đoạn hiện nay theo hướng gắn đào tạo với sự phát triển lâu dài của đội ngũ, coi đây là một khoản đầu tư chiến lược cho sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế và cơ chế, chính sách, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật tuy đã có nhiều quy định nhưng vẫn thiếu tính đồng bộ, chưa thật sự tạo được cơ chế ràng buộc và động lực cho người dạy, người học. Cần xây dựng khung năng lực chuẩn cho từng loại cán bộ, từ cơ sở đến cấp chiến lược, làm nền tảng thiết kế chương trình đào tạo, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cơ quan đào tạo, bồi dưỡng; trách nhiệm của người dạy, người học, đặc biệt là trách nhiệm của cơ quan cử cán bộ đi học và sử dụng cán bộ sau đi học - trách nhiệm trong việc tạo điều kiện học tập và gắn kết quả học tập với đánh giá, bổ nhiệm cán bộ. Chỉ khi việc học tập trở thành nhu cầu tự thân, tiêu chí bắt buộc, có ảnh hưởng trực tiếp đến con đường phát triển của mỗi cán bộ và được bảo đảm bằng những cơ sở pháp lý rõ ràng thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mới thật sự đi vào nền nếp và có chất lượng.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong thời kỳ phát triển mới xuất hiện nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn mới: phát triển lực lượng sản xuất số; xây dựng kinh tế số, xã hội số, chính phủ số, văn hóa số; công dân toàn cầu, giá trị toàn cầu… Do đó, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần thường xuyên bổ sung, cập nhật những vấn đề thực tiễn mới, sát với đời sống. Đồng thời, phương pháp đào tạo phải đổi mới theo hướng lấy người học làm trung tâm, phát huy tối đa vai trò chủ động, tự học, tự nghiên cứu của người học; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ số, kỹ năng phân tích, dự báo, xử lý các tình huống thực tiễn; tăng cường các hình thức khảo sát, trải nghiệm thực tế… Tại Trường Hành chính quốc gia Pháp (ENA, nay là INSP), mô hình kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và thực tập bắt buộc trong các cơ quan nhà nước đã tạo ra đội ngũ công chức tinh hoa, có năng lực toàn diện, đây là sự gợi mở thiết thực mà Việt Nam có thể tham khảo, vận dụng linh hoạt để nâng cao chất lượng đào tạo tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trong cả nước.
Thư tư, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là sự am hiểu và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
Đa phần đội ngũ giảng viên tại các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đều được đào tạo hệ thống, bài bản về lý luận, song chưa kinh qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, cần có cơ chế thu hút cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi tham gia giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời tạo điều kiện cho giảng viên thường xuyên đi thực tế, luân chuyển, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Khi giảng viên vừa giỏi lý luận, vừa giàu trải nghiệm thực tiễn, bài giảng sẽ trở nên sinh động, giàu sức thuyết phục, giúp học viên không chỉ học được tri thức, mà còn tiếp thu được phương pháp tư duy và bản lĩnh lãnh đạo.
Thứ năm, hiện đại hóa cơ sở vật chất công nghệ phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là xu thế tất yếu, việc xây dựng hệ thống học liệu điện tử, tổ chức các khóa học trực tuyến, áp dụng mô hình kết hợp trực tiếp và trực tuyến (blended learning) sẽ giúp tiết kiệm chi phí, mở rộng cơ hội học tập cho cán bộ ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, cần hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về đào tạo cán bộ, kết nối liên thông các cơ sở đào tạo với các cơ quan Đảng, Nhà nước, nhằm phục vụ việc quản lý, giám sát, đánh giá kết quả học tập một cách minh bạch, khoa học.
Thứ sáu, gắn kết đào tạo với sử dụng cán bộ.
Tình trạng “học một đằng, làm một nẻo” đã làm giảm sút hiệu quả công tác bồi dưỡng cán bộ trong nhiều năm qua. Vì thế, kết quả học tập cần được coi là một tiêu chí quan trọng trong quy hoạch, bổ nhiệm, đánh giá cán bộ. Cơ quan sử dụng cán bộ phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc cán bộ vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn công tác, coi đó là thước đo năng lực phát triển của cán bộ; cần bố trí công việc phù hợp và tạo môi trường thuận lợi để cán bộ sau khi được đào tạo, bồi dưỡng sử dụng, phát huy những tri thức, kinh nghiệm học được vào thực tiễn công tác. Đây chính là động lực mạnh mẽ đối với cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời là điều kiện kiểm chứng thực tế chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Từ các luận giải thực tiễn, có thể đưa ra một số kiến nghị trọng điểm. Đã đến lúc Bộ Chính trị cần ban hành nghị quyết chuyên đề Chiến lược quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn 2025 - 2035, gắn liền với Chiến lược cán bộ thời kỳ mới. Ở cấp địa phương, cần đẩy mạnh phân cấp, trao quyền chủ động cho các trường chính trị tỉnh, thành phố trong việc xây dựng chương trình đào tạo, đồng thời áp dụng cơ chế kiểm định chất lượng nghiêm túc. Đối với các cơ sở đào tạo, cần đổi mới mô hình quản trị theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế, nhằm nâng cao uy tín và chất lượng toàn diện.
Có thể khẳng định, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là một sự nghiệp lâu dài, gian khó nhưng mang ý nghĩa quyết định đối với tương lai của đất nước. Nếu thực hiện tốt các giải pháp căn cơ, đồng bộ, chúng ta sẽ tạo dựng được một đội ngũ cán bộ vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng, vừa có trí tuệ và kỹ năng quản lý hiện đại, thực sự tiên phong, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc kiến tạo kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 5, tr. 269.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I. tr. 186.
3. C. Mác - Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1975, t. 1, tr. 482.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t. 7, tr. 217.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 612.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tr. 6, tr. 35.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 278.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 213.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 187.
10. Ban Tổ chức Trung ương: Báo cáo tổng kết công tác tổ chức, cán bộ 2021 - 2023, Hà Nội, 2023 (Tài liệu lưu Văn phòng, Ban Tổ chức Trung ương).
11. Bộ Nội vụ: Niên giám thống kê đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2023.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 112.
13. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
14. Tổng Bí thư Tô Lâm: "Khẩn trương tham mưu việc tinh gọn bộ máy, góp phần tăng tốc, bứt phá vượt các mục tiêu Đại hội XIII của Đảng", Báo điện tử Chính phủ, ngày 16/12/2024, https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-to-lam-du-hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-cong-tac-to-chuc-xay-dung-dang-2024-102241216105908962.htm.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 174.
16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 302.