Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đa văn hóa

CT&PT - Mặc dù các văn kiện, nghị quyết… của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ không trực tiếp đề cập đến cụm từ “đa văn hóa”, song nội dung về đa văn hóa, về tôn trọng sự đa dạng trong văn hóa của các tộc người ở Việt Nam và tôn trọng sự đa dạng của nền văn hóa nhân loại… đã được bao trùm trong các khái niệm “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”...

Đa dạng văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhân loại nói chung, cho các quốc gia, dân tộc và các cộng đồng tộc người nói riêng. Gần nửa thế kỷ qua, chính sách văn hóa ở nhiều quốc gia đã đặt mục tiêu thúc đẩy sự khoan dung và tôn trọng bản sắc văn hóa của các cộng đồng ở trong nước. Những chính sách này được thực hiện thông qua các biện pháp như hỗ trợ các hiệp hội cộng đồng và các hoạt động văn hóa của họ, khuyến khích các hình ảnh tích cực trên các phương tiện truyền thông, hoàn thiện các dịch vụ công cộng nhằm đáp ứng những khác biệt văn hóa trong xã hội. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng ở mọi lĩnh vực, văn hóa cũng không nằm ngoài những tác động đó, đa dạng văn hóa đã mở rộng ra ngoài phạm vi quốc gia, dân tộc, trở thành sự đa dạng văn hóa của toàn nhân loại trên thế giới. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn phải hội nhập văn hóa quốc tế để phát triển bền vững, các quốc gia bắt đầu nghiên cứu và đưa ra những chính sách mới về văn hóa nhằm đạt mục tiêu quảng bá văn hóa quốc gia, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, đồng thời giải quyết những mối lo ngại về những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến văn hóa. Xu hướng xuất hiện và phát triển những chính sách như vậy đã phản ánh tinh thần tự do, dân chủ, và khát vọng khẳng định bản sắc của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng trên thế giới. Tuyên ngôn thế giới về đa dạng văn hóa được thông qua tại phiên họp toàn thể, kỳ họp thứ 31 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc ngày 02/11/2001 xác định đa văn hóa là tài sản chung của nhân loại và là một nhân tố thúc đẩy phát triển. Theo đó, văn hóa tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau theo thời gian và không gian. Sự đa dạng này tồn tại ở những nét riêng và điểm chung trong bản sắc của các nhóm người, các xã hội hình thành nên cộng đồng nhân loại. Là khởi nguồn cho giao lưu, đổi mới, và sáng tạo, đa dạng văn hóa cũng cần thiết đối với nhân loại như đa dạng sinh học đối với tự nhiên. Với ý nghĩa này, đa dạng văn hóa chính là tài sản chung của nhân loại và nó cần được công nhận, khẳng định vì quyền lợi của các thế hệ hiện tại và tương lai. Đa dạng văn hóa mở rộng khả năng lựa chọn dành cho mọi người; đó là một trong những nguồn phát triển, được hiểu không chỉ theo nghĩa tăng trưởng kinh tế, mà còn là phương tiện để đạt tới một sự tồn tại mãn nguyện về trí tuệ, tình cảm, đạo đức và tinh thần.

1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đa văn hóa

Đất nước ta từ thời lập quốc với quốc hiệu Văn Lang - Âu Lạc đến nay luôn là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ với đa dạng các truyền thống, sắc thái văn hóa khác nhau. Theo công bố chính thức của Nhà nước Việt Nam vào năm 1972, nước ta có 54 tộc người, thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ - tộc người khác nhau: Việt - Mường, Môn - Khmer, Tày - Thái, Nam Đảo, Mông - Dao, Tạng - Miến, Hán, với những truyền thống, sắc thái văn hóa rất phong phú, đa dạng, thể hiện qua các hình thức biểu đạt văn hóa như nếp sống, phong tục, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật, âm nhạc, tri thức địa phương, thực hành sinh kế,… Sự đa dạng, phong phú của các hình thức biểu đạt văn hóa trên là cơ sở quan trọng cho sự tồn tại bền vững, đoàn kết, giàu tính bản sắc và nhân văn của 54 dân tộc anh em của Việt Nam.

Mặc dù các văn kiện, nghị quyết… của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ không trực tiếp đề cập đến cụm từ “đa văn hóa”, song nội dung về đa văn hóa, về tôn trọng sự đa dạng trong văn hóa của các tộc người ở Việt Nam và tôn trọng sự đa dạng của nền văn hóa nhân loại… đã được bao trùm trong các khái niệm “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, “đặc trưng dân tộc”, “xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế”... Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ, mà trọng tâm là: coi văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, trong đó con người được nhìn nhận là trung tâm trong chiến lược phát triển bền vững; về tôn trọng đa văn hóa dân tộc và đa văn hóa nhân loại, hội nhập văn hóa quốc tế chính là yếu tố then chốt tạo nên nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam. Cụ thể:

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) chủ trương: Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng lần đầu tiên đưa ra quan niệm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đặt ra vấn đề hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại. Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó đặc biệt khẳng định vai trò của văn hóa trong chiến lược phát triển của đất nước, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, với nhiệm vụ: 1) Xây dựng văn hóa Việt Nam phải lấy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc làm cơ sở, nền tảng; 2) Xây dựng văn hóa Việt Nam cần phải học tập, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, bổ sung các giá trị mới. Có thể khẳng định, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII là văn kiện mang tính cương lĩnh của Đảng về văn hóa trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đánh dấu một thành tựu quan trọng trong xây dựng, tuyên truyền và phát triển văn hóa cách mạng trong tiến trình cách mạng dân tộc.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) đã nhấn mạnh việc gắn mục tiêu xây dựng văn hóa với xây dựng con người, đó là: Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, trong đó, nhấn mạnh việc hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Nếu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng mới chỉ dừng lại ở luận điểm: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thì đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, luận điểm mới của Đảng đã có sự mở rộng, làm rõ đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thông qua quan điểm: xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hệ thống lý luận văn hóa và phản ánh định hướng giá trị chung trong xây dựng phát triển văn hóa đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đó là: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta xác định xây dựng và phát huy giá trị, sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam là một trong trong các nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược, cần phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế; đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 24/11/2021, trên cơ sở khẳng định lại quan điểm xuyên suốt của Đảng là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ những nhiệm vụ cần thực hiện hiệu quả để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, đó là: Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của tất cả người dân Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra; xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại; phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới; phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền...

2. Thành tựu và hạn chế trong phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay

Nhờ quán triệt và thực hiện chủ trương đa văn hóa, trong thời gian qua, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: Nhận thức về văn hóa, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa khởi sắc. Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng. Từng bước hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo…

Bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực văn hóa, con người vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc công cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn; đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. Hệ thống thông tin đại chúng còn nhiều hạn chế; một số cơ quan báo chí xa rời tôn chỉ và có biểu hiện thương mại hóa; quản lý mạng xã hội còn bất cập. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại có mặt còn hạn chế.

3. Cơ hội và thách thức đặt ra với sự phát triển đa văn hóa ở Việt Nam

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp văn hóa Việt Nam có được cơ hội quảng bá rộng rãi trên thế giới. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế số tạo ra những thuận lợi cho sự phát triển văn hóa Việt Nam, giúp chúng ta khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa trên môi trường số. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang tạo ra sự tích cực xã hội và tích cực văn hóa cho người dân, là cơ hội thúc đẩy tinh thần tự quản, năng lực làm chủ của nhân dân trong việc tổ chức các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tích cực, toàn diện của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho văn hóa Việt Nam hội nhập và phát triển.

Song bên cạnh những cơ hội, văn hóa Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức, đó là: Thách thức trong việc hoàn thiện thể chế văn hóa; Thách thức trong việc chuyển đổi mô hình từ quản lý tập trung sang mô hình phân cấp quản lý văn hóa phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Thách thức về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực văn hóa trong bối cảnh nguồn lực dành cho văn hóa, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư cho văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa tương xứng với vai trò và vị thế của văn hóa khi đặt trong quan điểm phát triển bền vững đất nước; Thách thức về năng lực đổi mới sáng tạo, trong việc cải cách lĩnh vực văn hóa để làm cho văn hóa trở nên phát triển bền vững hơn; Thách thức của bối cảnh nền kinh tế số, của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Thách thức từ toàn cầu hóa văn hóa như là một quá trình lưu thông mà thông qua đó, các nền văn hóa dân tộc đang ngày càng hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau; Thách thức trong việc xử lý hài hòa nhiều mối quan hệ khác nhau của văn hóa, như mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế, giữa truyền thống và hiện đại...        

Sự phát triển đa văn hóa ở Việt Nam những năm sắp tới rất quan trọng đối với sự phát triển chung của đất nước. Tận dụng cơ hội và phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu và vượt qua được thách thức sẽ là cách thức tốt nhất để Việt Nam phát triển văn hóa, thực sự biến văn hóa trở thành động lực và mục tiêu cho sự phát triển đất nước.

ĐỖ THỊ NA

Ban Tuyên giáo Trung ương

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin