CT&PT - Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam vừa là một tất yếu khách quan, vừa là mục đích và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Bài viết góp phần làm rõ sự cần thiết, nội dung và giải pháp góp phần xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1. Sự cần thiết của việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay
Hệ giá trị con người Việt Nam được hiểu là hệ thống những chuẩn mực cơ bản về nhận thức và hành vi của con người Việt Nam, phản ánh những cái chung tích cực, vừa phổ biến, vừa đặc thù trong phương thức sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần của cộng đồng dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển suốt chiều dài lịch sử cho đến ngày nay. Hệ giá trị con người Việt Nam được xây dựng trên những giá trị truyền thống được hình thành trong quá khứ, như yêu nước, đoàn kết, nhân ái, khoan dung...; những giá trị của thời đại hiện nay như trách nhiệm, trung thực, kỷ cương...; những giá trị định hướng cho sự phát triển trong tương lai, như kỷ luật, tự giác, sáng tạo... Hệ giá trị con người Việt Nam vừa là cái “đã có”, vừa là cái “cần có”. “Đã có” bởi đó là hồn cốt của dân tộc, được định hình, phát triển suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị; “cần có” bởi đó là những yêu cầu, đòi hỏi của thời đại ngày nay, của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam là tổng thể các quan điểm, phương hướng, giải pháp cùng các thiết chế xã hội nhằm hình thành, củng cố, phát triển hệ thống những chuẩn mực về nhận thức và hành vi của con người Việt Nam phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Đó là một tất yếu hợp quy luật bởi lẽ, hệ giá trị con người Việt Nam vừa có vị trí, vai trò quan trọng, vừa là tiền đề, phương tiện cho việc phát huy vai trò chủ thể của con người Việt Nam trong xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ. Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam là một trong những động lực khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; là mục tiêu của công cuộc đổi mới. Đồng thời, tình trạng lệch chuẩn, thiếu định hướng giá trị, sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn còn tồn tại; công tác xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới còn tồn tại một số hạn chế, điểm nghẽn cần tiếp tục khắc phục, tháo gỡ... Do đó, không phải ngẫu nhiên, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”1. Hệ giá trị quốc gia Việt Nam là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc; vừa là sự tích hợp của giá trị văn hóa, giá trị con người, vừa mang tính cốt lõi, bao trùm, định hướng cơ bản cho giá trị văn hóa, giá trị con người. Hệ giá trị văn hóa Việt Nam là dân tộc, khoa học, đại chúng (nhân văn), là tổng hòa tinh hoa văn hóa dân tộc, là nền tảng của hệ giá trị quốc gia, là nhân tố bồi dưỡng giá trị con người. Con người là chủ thể tạo nên hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, còn hệ giá trị con người là hệ quả tổng hòa của hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa. Để thực hiện quan điểm của Đảng, cần chỉ ra và làm rõ nội dung, những giải pháp xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Những giá trị cơ bản cấu thành hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, yêu nước - giá trị phổ biến, cơ bản, cốt lõi của con người Việt Nam
Yêu nước là giá trị hạt nhân trong hệ giá trị con người Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối, định hướng phát triển các giá trị khác. Yêu nước là giá trị phổ biến của nhân loại, được định hình trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân, dân tộc. Song, ở Việt Nam, yêu nước trở thành một truyền thống, chuẩn mực cao nhất trong triết lý nhận thức và hành động của người dân.
Yêu nước của dân tộc Việt Nam được sinh dưỡng từ phương thức sinh hoạt cộng đồng, bởi các thế hệ cư dân trong quá trình bảo vệ cộng đồng trước những thách thức của tự nhiên và chống ngoại xâm: sự gắn bó, cố kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên tai, địch họa; ý chí kiên cường, lòng dũng cảm, đức hy sinh trong các cuộc chiến tranh vệ quốc cả về phương diện lãnh thổ cũng như giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”2. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ “Trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước”3. Do đó, yêu nước đã thực sự là một mạch ngầm đầy năng lượng, là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trong lịch sử dân tộc, là sức mạnh cộng hưởng của dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời là giá trị cốt lõi trong hệ giá trị con người Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, yêu nước gắn bó hữu cơ với yêu chủ nghĩa xã hội, nó thống nhất trong mục tiêu giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Yêu nước là nguồn nội lực quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội bảo đảm điều kiện, môi trường để lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân được quy tụ, phát huy phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử. Ngày nay, yêu nước được chỉ đạo, dẫn dắt bằng triết lý phát triển xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”4. Chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội là những con người có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa, ở đó yêu nước là giá trị hạt nhân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng môi trường văn hóa một cách toàn diện... để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế. Phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tự hào dân tộc, tính cộng đồng và khơi dậy khát vọng vươn lên”5.
Thứ hai, đoàn kết, nhân ái, khoan dung - các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn, phát huy trong giai đoạn mới
Văn hóa là tổng hòa các giá trị của con người. Vì vậy, khi nói đến hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc tức là nói đến hệ giá trị con người Việt Nam. Cùng với lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, hệ giá trị con người Việt Nam truyền thống còn là tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, khoan dung...6. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mối quan hệ giữa các tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam có đặc trưng là thống nhất trong đa dạng. Đa dạng ở bản sắc riêng, văn hóa riêng và thống nhất ở sự đoàn kết trong gánh vác trách nhiệm đối với Tổ quốc qua từng thời kỳ. Thực tiễn cho thấy, đoàn kết được coi là “chìa khóa vàng” để khai phóng sức mạnh Việt Nam, là cơ sở, cội nguồn của thành công. “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”7. Đối với Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là vấn đề mang tính sách lược, mà còn là vấn đề mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam, là giá trị cần được bảo tồn, phát huy trong giai đoạn hiện nay.
Đoàn kết là giá trị tinh thần to lớn, là một trong những động lực chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, ông cha ta luôn thắt chặt tinh thần đoàn kết. Trong thời phong kiến, mỗi khi chống giặc ngoại xâm thì tinh thần “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận” được đặt lên hàng đầu, vượt qua mọi mâu thuẫn nội bộ hằng ngày. Ở thời kỳ hiện đại, hễ là người Việt Nam, không phân biệt giới tính, độ tuổi, tôn giáo, dân tộc phải phát huy truyền thống đoàn kết chống giặc, cứu nước8. Mỗi bước tiến của cách mạng, kể cả trong thời đại ngày nay, thì đoàn kết sẽ chuyển hóa thành sức mạnh toàn diện, động lực tinh thần của mỗi người Việt Nam trong xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Do đó, trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”9.
Bên cạnh đoàn kết, hệ giá trị con người Việt Nam còn được thể hiện ở lòng nhân ái, khoan dung, “lá lành đùm lá rách”, sẻ chia, yêu thương, cảm thông với những người gặp khó khăn, hoạn nạn “thương người như thể thương thân”. Đó là truyền thống, cơ sở, nền tảng vững chắc để “đồng bào” Việt Nam đối đầu trong thử thách của chiến tranh, địch họa, hướng về tương lai tốt đẹp. Ngày nay, tinh thần “tương thân, tương ái” được thể hiện rõ trong thời kỳ cả nước chống dịch “Covid-19”. Đó là sự tận tâm, tận tình của đội ngũ y bác sĩ; tinh thần quyết liệt khẩn trương của Đảng, Nhà nước; sự tiếp tế, viện trợ của các mạnh thường quân và nhân dân cả nước trong chiến dịch chống đại dịch.
Thứ ba, tính kỷ luật và sáng tạo - những giá trị cần được định hình và phổ biến trong con người Việt Nam hiện nay
Con người là chủ thể, động lực cho sự phát triển xã hội. C. Mác chỉ rõ: “... đối với con người xã hội chủ nghĩa, toàn bộ cái gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người kinh qua lao động của con người,...”10. Ở mỗi thời đại kinh tế - xã hội khác nhau, con người cần thỏa mãn những yêu cầu tương ứng về phẩm chất và năng lực. Hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay không chỉ bao gồm giá trị truyền thống, mà còn bao gồm giá trị hiện đại. Với xu thế toàn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cần định hình và phổ biến ở con người những giá trị mới, giá trị thời đại. Từng bước hình thành những thế hệ người Việt Nam tính kỷ luật và đổi mới sáng tạo.
Về tính kỷ luật, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp, nền kinh tế tiểu nông nên trong sinh hoạt vật chất và tinh thần còn mang nặng phong cách tiểu tư sản. Biểu hiện đặc trưng của phương thức sản xuất này là thiếu tính kỷ luật, lệ cao hơn luật, tình cao hơn lý. “Thiếu ý thức pháp luật là một trong những chứng bệnh tiêu biểu phát sinh từ tính linh loạt của người Việt Nam. Đây là một biểu hiện tập trung và nghiêm trọng nhất của thói tùy tiện”12. Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam đã làm thay đổi cách thức sản xuất vật chất. Nền sản xuất công nghiệp luôn đòi hỏi tính chuyên môn hóa cao, sản xuất theo dây chuyền, nên bắt buộc họ phải tuân thủ kỷ luật lao động, không thể tùy tiện làm việc theo thói quen, sở thích. Chấp hành kỷ luật vừa là yêu cầu của xã hội đang công nghiệp hóa, đã hoàn thành công nghiệp hóa và hậu công nghiệp, vừa là “lề lối làm việc xã hội chủ nghĩa”12. Tính kỷ luật của người Việt Nam hiện nay là siêng năng, khẩn trương, khiêm tốn, luôn cố gắng tiến bộ làm tròn nhiệm vụ được giao. Đồng thời, cần hướng tới việc thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuân thủ đúng, đủ nội quy, quy định của cơ quan, tổ chức, đơn vị; có tác phong làm việc chuyên nghiệp và bảo đảm an toàn lao động…, từ đó nâng cao năng suất, tạo uy tín, lòng tin, vị thế của mình.
Về đổi mới sáng tạo, đổi mới sáng tạo là thuộc tính bản chất của con người, nhờ sáng tạo mà con người đã tạo nên kỳ tích, chứng minh và khẳng định mình trước tự nhiên. Đổi mới sáng tạo là tạo ra cái mới có giá trị, nó vừa phản ánh nhu cầu cá nhân, vừa là nhu cầu của sự phát triển xã hội. Ngày nay, đổi mới sáng tạo không chỉ là nội dung cốt lõi mà còn là điều kiện tiên quyết cho sự hình thành, phát triển của nền kinh tế nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra và ứng dụng các giá trị mới trong nhận thức và thực tiễn: tạo ra các kỹ thuật, công nghệ mới, các phương thức quản trị hiệu quả, giải pháp thúc phát triển nói chung... nhằm tăng năng suất lao động xã hội và phát triển xã hội bền vững. Đại hội XIII của Đảng không đã nhiều lần đề cập đến đổi mới sáng tạo, thúc đẩy đổi mới sáng tạo từ cá nhân, tập thể, doanh nghiệp đến cả trong hệ thống chính trị... trên tất cả các ngành, các lĩnh vực. “Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”13. Trước sự thay đổi của quá trình kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, đổi mới sáng tạo là giá trị thời đại cần có ở các thế hệ con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, cần được tiếp tục định hình và tạo điều kiện để ngày càng được định hình và phổ biến trong xã hội hiện nay.
Việc nghiên cứu xác định nội dung cơ bản trong hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”14.
3. Giải pháp chủ yếu xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay
Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay
Hệ giá trị con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới. Nó mang lại cho xã hội những định hướng cơ bản, nhất quán cho đời sống xã hội. Song, hệ giá trị con người Việt Nam cũng có một số biểu hiện tiêu cực như môi trường văn hóa xã hội bị ô nhiêm bởi tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực; quản lý phát triển văn hóa con người còn hạn chế; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gây bức xúc trong nhân dân; biểu hiện lệch chuẩn, tệ nạn xã hội còn hiện hữu...15. Vì vậy, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay là vô cùng cần thiết.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cần nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ các cấp trong hệ thống chính trị, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt, cấp chiến lược về vị trí, vai trò, nội dung, cũng như phát huy vị trí, vai trò của hệ giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới. Đồng thời, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân trong việc định hình và phổ biến các giá trị cốt lõi của con người Việt Nam hiện nay; chú trọng giáo dục gia đình, kết hợp giáo dục gia đình với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam.
Hai là, hoàn thiện thể chế phát triển hệ giá trị con người Việt Nam
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển văn hóa - con người Việt Nam thời đại mới. Thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Xây dựng các văn bản vi phạm pháp luật có liên quan về phát triển văn hóa, phát triển con người, báo chí - truyền thông. Tạo cơ chế, khung pháp lý để các chủ thể ngoài công lập tham gia tích cực vào quá trình phát triển văn hóa - con người Việt Nam hiện nay. Đồng thời, thực hiện tốt hệ thống các chính sách về nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, quản lý phát triển xã hội hiệu quả, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, kế hoạch, chương trình thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đảng ta xác định: “Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới”16. Xây dựng đồng độ và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ xây dựng văn hóa - con người, chú trọng hạ tầng giao thông, hạ tầng số..., quản trị có hiệu quả truyền thông và mạng xã hội.
Ba là, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không thể tách rời, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với tư cách là yếu tố quan trọng, cơ bản. Đồng thời, phát huy sức mạnh, ý chí, lòng nhiệt thành của người dân; phát huy năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn.
Bốn là, loại bỏ các yếu tố lạc hậu trong hệ giá trị cũ; tiếp thu, tiếp biến các giá trị tiến bộ, nhân văn của nhân loại hiện nay
Phương thức sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần của dân tộc Việt Nam gắn liền với nền nông nghiệp tiểu nông, văn hóa làng xã với biểu hiện nổi trội tính cộng đồng và tính tự trị. Tính cộng đồng biểu hiện ở sự gắn kết mọi người với nhau, mang đến những giá trị cốt lõi: đoàn kết, tương thân tương ái, tinh thần tập thể, sự hòa đồng và nếp sống dân chủ, bình đẳng. Song, nó hạn chế vai trò cá nhân, tâm lý ỷ lại, dựa dẫm, thói quen cào bằng, đố kỵ. Tính tự trị biểu hiện ở tinh thần độc lập, con người cần cù, siêng năng, nếp sống tự cung tự cấp. Ngược lại, nó cũng mang đến tính ích kỷ, cá nhân, phè phái...17.
Trong giai đoạn hiện nay, trước những tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức; Cách mạng 4.0, sự phát triển của internet, truyền thông số và giao lưu văn hóa... đã tạo ra nhiều thời cơvà thách thức đan xen trong việc bảo tồn các giá trị truyền thống của con người Việt Nam.
Sự biến động nội sinh và ngoại sinh là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển xã hội, tác động đến mọi người, cộng đồng, dân tộc. Nhưng dù biến động mạnh mẽ như thế nào, hệ giá trị con người Việt Nam vẫn phải tiếp tục kế thừa và tiếp biến; biến những thách thức thành cơ hội để giữ gìn, phát huy các yếu tố tốt đẹp, loại bỏ những yếu tố lạc hậu, bảo thủ, phát huy vai trò định hướng, đánh giá và chuẩn mực của mình, đồng thời tiếp tục bổ sung, phát triển, tiếp thu, tiếp biến các giá trị tinh hoa của nhân loại.
4. Kết luận
Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam tiếp cận từ phương diện nội dung và giải pháp chủ yếu được xem là cơ sở lý luận cần thiết, là yêu cầu tất yếu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Song, cần tiếp tục có những nghiên cứu, phân tích sâu sắc hơn về lý luận; sử dụng đầy đủ, đồng bộ các giải pháp; chỉ ra những phương thức chủ yếu nhằm tổ chức thực tiễn xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiệu quả, hợp quy luật, góp phần xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
1, 5, 13, 14, 15, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 143, 262, 118, 221,110, 84-86, 215.
2, 3, 4, 7, 12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 38; t. 5, tr. 516; t. 13, tr. 66; t. 9, tr. 177; t. 12, tr. 123.
6. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56.
8. Trích theo tinh thần của Hồ Chí Minh trong Lời lêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946.
10. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 42, tr. 182.
11. Trần Ngọc Thêm: Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Hà Nội, 2016, tr. 403.
17. Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 99.
ThS. NGUYỄN HẠNH QUYỂN
ThS. TRẦN NHẬT MINH
Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh