Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình mới

CT&PT - Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bài học chiến lược của Đảng ta qua các thời kỳ nhằm tạo sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Cho đến nay, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị, có ý nghĩa thực tiễn đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc (tinh thần yêu nước, nhân ái, đoàn kết, cần cù, chính trực, ý thức quật cường chống ngoại xâm…) góp phần tạo nên sức sống, tư tưởng cách mạng của người dân thuộc địa để nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước, với tinh thần “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết dành cho được độc lập”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”… Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của các giai cấp công nhân, nông dân, trí thức… tạo thành nhân tố cơ bản, có ý nghĩa chiến lược quyết định thắng lợi của cách mạng. Sức mạnh dân tộc còn là kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, gương hy sinh anh dũng của các liệt sĩ và quần chúng cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những truyền thống văn hóa, lịch sử quý giá đó cần được trân trọng, bồi đắp, phát huy để tạo thành động lực phát triển.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các yếu tố làm nên sức mạnh thời đại đó là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự liên minh chiến đấu của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa và chính quốc, sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật…
Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng thành công học thuyết Mác - Lênin vào tình hình của các dân tộc thuộc địa, Người đã xây dựng đường lối, chiến lược, sách lược cho cách mạng trong từng thời điểm cụ thể. Người xác định, muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phải thực hiện khối liên minh chiến đấu giữa lao động ở các nước thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc. Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới phát triển lớn mạnh vào nửa cuối thế kỷ XX, trở thành trào lưu mạnh mẽ của sức mạnh thời đại, cách mạng Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, như Liên Xô, Trung Quốc... 

Cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ đem lại sức mạnh chưa từng có cho loài người, trở thành một nhân tố của sức mạnh thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Thế giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm chủ được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình”1.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Xuyên suốt trong nhận thức và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc đóng vai trò quyết định, sức mạnh thời đại giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi. Trên hành trình tìm đường cứu nước, nắm bắt đặc điểm của lịch sử khi chủ nghĩa đế quốc ra sức bóc lột, thuộc địa và sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga đánh dấu bước chuyển của thời đại mới, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nỗ lực hết mình, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới”2. Người đã xác định con đường, mục tiêu, nhiệm vụ, lực lượng, phương pháp cách mạng đúng đắn, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc giành thắng lợi, mở ra thời đại mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. 

Nhận thức về tính chất và sức mạnh thời đại, nắm bắt xu thế thời cuộc và sự tác động của các lực lượng trên trường quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chiến lược và sách lược đối ngoại trong từng thời kỳ của cách mạng. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”3, “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”4. Đối với Hồ Chí Minh, trong quan hệ quốc tế có biến động, việc xác định đối tác, đồng minh, kẻ thù chỉ mang ý nghĩa tương đối, điều quan trọng trên hết là lợi ích quốc gia, dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Người trước hết coi trọng và mở rộng hợp tác toàn diện với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa; thứ hai là các nước láng giềng và các nước bạn; thứ ba là các nước lớn, có tiềm lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật, có vị trí và vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế; thứ tư là những nước đã có quan hệ trong lịch sử, thuận lợi cho việc hiểu biết tâm lý, hiểu biết những điều kiện tự nhiên, xã hội của đất nước và con người Việt Nam; thứ năm là các đối tác khác trên thế giới.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong di sản Hồ Chí Minh chứa đựng tính khoa học và nghệ thuật, đã đưa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trước các kẻ thù lớn mạnh: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to”5. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh là kết hợp đúng đắn các nguồn lực và trào lưu cách mạng của thế giới để nhân lên sức mạnh của dân tộc, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ cách mạng.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn hiện nay 

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những bài học chiến lược của Đảng và cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế, bài học đó càng có tính thời sự sâu sắc, được Đảng ta khẳng định và nhấn mạnh qua các kỳ Đại hội. Thấm nhuần và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại giúp Đảng, Nhà nước có chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp, đưa công cuộc đổi mới đất nước giành được những thành tựu quan trọng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước. Đại hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau”6. Đồng thời, chỉ ra nhiệm vụ đối ngoại là: “ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”7

Bước vào thiên niên kỷ mới, trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, Đảng ta xác định: “ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài”; đồng thời nhấn mạnh “sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định”8.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”9

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) nhiều lần đề cập đến vấn đề “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Điều này cho thấy vấn đề “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” được Đảng ta xác định là một trong những nội dung chính trong đường lối của Đảng.

Nội dung cơ bản của kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn hiện nay được thể hiện rõ trong đường lối đối ngoại của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: 

Thứ nhất, trong đánh giá “dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới” làm cơ sở cho những định hướng chính sách cụ thể của Việt Nam, Đảng ta đã nhận định một số vấn đề nổi bật như: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang có nhiều thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan; kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác do động của đại dịch Covid-19; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc; những diễn biến phức tạp trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo tại khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông liên quan trực tiếp đến lợi ích của Việt Nam…

Thứ hai, dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ từ bên ngoài để phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền lợi dân tộc phải được đặt lên trên hết, trước hết, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và bổ sung: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”10. Sự điều chỉnh từ “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc” sang “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” cho thấy Đảng ta xác định mở rộng hơn các hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ tối đa mọi lợi ích quốc gia. Ngoài ra, việc bổ sung Hiến chương Liên hợp quốc là cơ sở để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc cho thấy những lợi ích của Việt Nam được xác định là đan xen hoặc nằm chung trong lợi ích của các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta nhấn mạnh: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”11; “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”12. Tuy nhiên, Việt Nam không chỉ tận dụng những lợi ích mà các nguồn lực bên ngoài đem lại mà cần phải thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế.

Thứ ba, xây dựng tình hữu nghị, hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới để hướng tới môi trường ổn định chung: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”13 nhằm mục tiêu: “Mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã hội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội”14.

Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng thể hiện trong các thành tựu về ngoại giao song phương; ngoại giao đa phương... Về ngoại giao song phương: trong ngoại giao giữa hai nước, quan hệ với các quốc gia láng giềng được xem là ưu tiên hàng đầu. Việt Nam một mặt cần phải “Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng”, mặc khác cần “Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”15. Các nước láng giềng với đường biên giới chung, vừa là đối tác có nền tảng quan hệ truyền thống, lịch sử lâu đời, vừa tiềm ẩn các thách thức an ninh biên giới. Củng cố và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, tạo ra môi trường phát triển hòa bình và ổn định, sử dụng sức mạnh thời đại để củng cố sức mạnh dân tộc. Các mối quan hệ được ưu tiên “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn” nhằm “tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy” là các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác. Những mối quan hệ đối tác này chính là các nguồn ngoại lực giúp Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển và nâng cao vị thế, uy tín quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng mối  quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 17 nước “đối tác chiến lược”, 13 nước “đối tác toàn diện”. Về ngoại giao đa phương: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được đề cập trên nhiều khía cạnh. Theo đó, sức mạnh dân tộc là cơ sở và động lực để có được sức mạnh thời đại. Hiện nay, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như: Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO…

Việc chủ động và tích cực tham gia vào các cơ chế đa phương, “đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, Hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế”16 cần phù hợp với “khả năng” (năng lực) của quốc gia. Điều này cho thấy, trong các quan hệ đa phương, Đảng ta chủ yếu dựa vào nội lực quốc gia, coi đây là đòn bẩy để tham gia vào các cơ chế đa phương. Không chỉ tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, Việt Nam cần thực hiện trách nhiệm quốc tế, điều này được phản ánh trong định hướng ngoại giao đa phương trong khối ASEAN: “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực”17; sức mạnh thời đại được kết hợp nhằm củng cố sức mạnh dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tập trung nhấn mạnh vấn đề ngoại giao đa phương trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng, định hướng “Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng - an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”18.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay là để nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc, nắm bắt xu thế vận động của thế giới, tận dụng thời cơ thuận lợi để phát triển, thực hiện thành công mục tiêu cách mạng. Trong mọi thời điểm, Đảng ta luôn quán triệt phương châm hành động, phương pháp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”19. Sức mạnh quốc gia - dân tộc, đường lối, chiến lược, chính sách đối ngoại là nguyên tắc, là cái gốc vững chắc, tuy nhiên trong bối cảnh mới hiện nay, cần có những ứng xử linh hoạt, nhạy bén về sách lược để hài hòa giữa lợi ích  của Việt Nam với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay vừa bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, vừa khai thác các cam kết khu vực, quốc tế để phục vụ triển khai “chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội” của đất nước. 

Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, nhờ vào sự sáng tạo, khéo léo, kết hợp tài tình giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, trung thành, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, nước ta đã đạt được vị thế và uy tín quốc tế chưa từng có, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng đất nước Việt Nam cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc.


1, 2, 5, 19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 104; t. 2, tr. 329; t. 15, tr. 623; t. 8, tr. 555.

3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 256, 39.

6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 439, 433.

8. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 47.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2012, tr. 66.

10, 11, 12, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, t. I, tr. 161-162, 111, 110-111, 164.

13, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 162.

15, 17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 163.

TS. LÊ THỊ THU HỒNG

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin