Tóm tắt: Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, con người chính là tài nguyên quý giá nhất của đất nước. Vì vậy, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng phải vì con người, tạo môi trường thuận lợi để con người có cơ hội phát huy mọi năng lực của bản thân. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định, con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; phát huy nhân tố con người là một nhiệm vụ trọng yếu, khâu đột phá chiến lược để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Từ khóa: chủ nghĩa Mác - Lênin, phát huy nhân tố con người, phát triển con người Việt Nam
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề con người và phát huy nhân tố con người
Các Mác đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng về con người: “bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”1. Từ cách tiếp cận con người hiện thực, triết học Mác chỉ ra rằng, con người là một thực thể thống nhất giữa hai phương diện tự nhiên (sinh học) và xã hội, là thực thể sinh học - xã hội.
Con người trước hết là một thực thể tự nhiên (sinh học) với tất cả những đặc điểm sinh lý, cấu trúc cơ thể và nhu cầu tự nhiên. Khi xem xét con người, triết học Mác - Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên, sinh học ở con người. C. Mác coi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”; “con người là bộ phận của giới tự nhiên”, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Là một thực thể tự nhiên - sinh học, con người tồn tại cùng với những bản năng tự nhiên và những đặc tính vốn có, chính là nhu cầu ăn, uống, mặc, ở, đi lại… Con người khác với con vật căn bản ở chỗ, con vật tồn tại thuần túy bản năng, còn bản năng của con người là bản năng được ý thức. Sự tồn tại của con người là tồn tại mang tính xã hội. Trong quá trình tồn tại, cả con người và con vật đều có mối quan hệ với môi trường và chịu sự chi phối của môi trường. Nhưng con vật thì hoàn toàn phụ thuộc vào môi trường, còn con người ngoài việc khai thác tự nhiên, còn cải tạo tự nhiên, sáng tạo thêm những cái mà tự nhiên không có. Lênin cho rằng, thế giới không làm thỏa mãn con người, vì vậy con người quyết định biến đổi thế giới thông qua hoạt động của mình. Như vậy, thuộc tính sinh học ở con người là tiền đề, điều kiện cho sự hình thành và phát triển của con người. Vấn đề là phải làm cho thuộc tính sinh học ngày càng được nhân tính hóa, nhân loại hóa. Xã hội càng văn minh, con người càng phát triển thì cái bản năng sẽ càng thu hẹp lại, nhường chỗ cho hành vi tự giác.
Con người là một thực thể xã hội. Bản chất xã hội của con người được thể hiện trong hoạt động, mà trước hết là hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác coi hoạt động lao động là hành vi lịch sử đầu tiên, nhờ đó con người tách ra khỏi thế giới động vật. Từ hoạt động lao động sản xuất, con người đã chuyển hóa sức mạnh của tự nhiên thành sức mạnh của mình bằng việc chế tạo công cụ lao động, cải tạo đối tượng lao động theo nhu cầu. Song, con người chỉ tồn tại với tư cách là người trong mối quan hệ với con người, với cộng đồng, với thế giới xung quanh. Các mối quan hệ xã hội của con người được hình thành trong quá trình tham gia các hoạt động thực tiễn, tham gia vào đời sống xã hội. Đến lượt mình, tổng hòa các mối quan hệ ấy lại quy định bản chất xã hội của con người. Như vậy, quan hệ xã hội là yếu tố cấu thành, là đặc trưng bản chất của con người. Đó là bản chất xã hội dựa trên cơ sở thực thể tự nhiên.
Mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội đều có những yêu cầu đặc thù đối với con người tồn tại trong xã hội đó. Sự phát triển của con người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của xã hội. Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở hiện thực của nhân cách dựa trên những tiền đề tự nhiên. Mặt khác, hoạt động của con người tạo ra những mối quan hệ xã hội - nền tảng của nhân cách. Con người càng tham gia hoạt động xã hội tích cực bao nhiêu thì bản thân càng hoàn thiện bấy nhiêu, do vậy, cần phải tạo điều kiện để mỗi người được tham gia vào cái chung (xã hội hóa) và khẳng định được cái riêng (cá thể hóa), nghĩa là làm cho con người thực sự trở thành sản phẩm của xã hội, đồng thời là chủ thể của xã hội.
Từ những phân tích của chủ nghĩa Mác về con người, có thể khẳng định, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào quy định, chi phối, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình, con người là trung tâm của sự phát triển:
Thứ nhất, con người là chủ thể của xã hội, là động lực của sự phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người khẳng định vai trò của mình đối với sự phát triển của xã hội. Trên cơ sở thực tiễn, nhận thức của con người về hiện thực khách quan ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, tiếp cận gần hơn với bản chất của khách thể bằng cách sáng tạo hệ thống những khái niệm, phạm trù và sử dụng nó như một phương tiện để nhận thức thế giới. Trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về thế giới vào hoạt động thực tiễn, con người tác động vào giới tự nhiên và từng bước cải tạo giới tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con người ngày càng phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tình cảm, tâm lý, thực sự là một thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên - sinh học với cái xã hội - văn hóa.
Thứ hai, con người là chủ thể sáng tạo lịch sử. Con người là chủ thể của các quan hệ kinh tế - xã hội và mọi giá trị tinh thần. Sự phát triển của xã hội được quyết định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Là một thành tố của lực lượng sản xuất, con người vừa là chủ thể sáng tạo và “tiêu dùng” sản phẩm, vừa là nguồn lực đặc biệt của quá trình sản xuất. Trong quá trình con người tiến hành sản xuất vật chất, xã hội loài người đã không ngừng biến đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác.
Thứ ba, trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, nhân tố con người là nguồn lực quan trọng nhất. Có thể khẳng định, các nguồn lực khác chỉ thực sự phát huy giá trị khi được con người quản lý và sử dụng hiệu quả. Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ đóng vai trò quyết định đối với năng suất và chất lượng lao động. Do đó, con người trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc.
2. Phát huy nhân tố con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Xuất phát từ hiện thực khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta luôn coi con người là trung tâm của phát triển và coi việc phát huy nhân tố con người là một trong những nhiệm vụ chiến lược. Do đó, Đảng ta đã có nhiều quan điểm, chủ trương đúng đắn để phát huy nhân tố con người. Quan điểm, chủ trương đó ngày càng hoàn thiện hơn qua mỗi kỳ Đại hội.
Đại hội VI (1986) đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức của Đảng về con người và phát huy nhân tố con người. Điều này được thể hiện rõ qua quan điểm: “mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội - tất cả vì con người”2. Quan điểm này không chỉ cho thấy mục tiêu giải phóng con người mà còn cho thấy vị trí trung tâm của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng ta khẳng định, cơ sở chủ yếu và nguồn gốc sâu xa tạo nên sức mạnh là quần chúng nhân dân, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, quần chúng nhân dân là người tạo nên lịch sử. “Sự quan tâm đến con người và thái độ tôn trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trong các dịch vụ phục vụ đông đảo nhân dân”3. Như vậy, trong quan điểm của Đảng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước.
Đại hội VII (1991) tiếp tục tinh thần đổi mới của Đại hội VI, khẳng định mục tiêu “phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”4. Từ đó, các chính sách kinh tế đều nhằm mục tiêu phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
Tại Đại hội VIII (1996), Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: “phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”5. Để xác lập, củng cố và nâng cao vị thế làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong đó, nhân tố con người đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Chủ trương phát triển con người được thể hiện trên các mặt: trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo…
Đại hội IX (2001) của Đảng xác định, cần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện trong phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Vấn đề bồi dưỡng thế hệ trẻ được đặt ra khá cụ thể dựa trên các tiêu chí: có tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình; có lòng tự tôn dân tộc, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp… Đại hội IX đã đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển”6.
Đại hội X (2006) nhấn mạnh: “Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các nguồn lực của Nhà nước”7.
Đại hội XI (2011) khẳng định, phải phát huy tối đa nhân tố con người; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Do đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được Đại hội XI coi là một trong ba khâu đột phá trong thực hiện mục tiêu phát triển đất nước. Đại hội XI không chỉ quan tâm phát triển con người Việt Nam toàn diện “về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật”8 mà còn chú ý đến những nhân tố tạo điều kiện để phát triển toàn diện con người: nâng cao sức sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống của người dân…
Đại hội XII (2016) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”9. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ phát huy vai trò của con người Việt Nam, từ công nhân, nông dân, trí thức đến thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người Việt Nam ở nước ngoài…
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc phát huy nhân tố con người Việt Nam phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đã đạt được những kết quả quan trọng. Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã được Đảng, Nhà nước ta hiện thực hóa bằng các biện pháp, hành động cụ thể: tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách ưu đãi trong công tác đào tạo và thu hút nhân tài như chế độ, tiền lương, tiền thưởng, điều kiện, phương tiện làm việc…; chính sách cán bộ tương đối đồng bộ, toàn diện, hợp lý từ khâu đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, bổ nhiệm, đãi ngộ... Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tiềm lực và phát huy vai trò của đồng bào Việt kiều, đặc biệt là đội ngũ trí thức, doanh nhân đóng góp về vật chất, tinh thần và tài năng cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Chính sách đối với từng giai cấp, từ công nhân, nông dân đến trí thức, doanh nhân, tín đồ tôn giáo… cũng được ban hành đầy đủ, hệ thống nhằm phát huy tối đa tiềm năng, sức mạnh của họ trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Nhờ đó, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt, nước ta thoát khỏi nhóm nước thu nhập thấp, trở thành nước có thu nhập trung bình. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2019 tăng 7,02%, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao trong khoảng 6,6 - 6,8%.
Cùng với những đóng góp cho sự phát triển kinh tế, nhân tố con người còn góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%, cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong lĩnh vực an sinh xã hội, công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được khắc phục hoặc khống chế. Đầu năm 2019, đã có 14 triệu thẻ bảo hiểm y tế được cấp phát miễn phí cho đối tượng chính sách trong cả nước. Chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục tăng trong các thập kỷ qua.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào về thăm quê hương, mở rộng các hoạt động văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy nhân tố con người Việt Nam chưa được tổ chức thực hiện tốt. Hạn chế này do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ, song chưa có tiêu chí và giải pháp khoa học để khắc phục; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp,… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, dẫn đến công tác đánh giá cán bộ chưa thực sự khách quan.
Hai là, công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Chính sách, cơ chế tài chính đầu tư cho giáo dục, đào tạo chưa phù hợp. Giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng làm việc chưa được chú trọng đúng mức.
Ba là, chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc phát huy tối đa nhân tố con người Việt Nam. Các chính sách nhằm phát huy nhân tố con người Việt Nam chưa được vận dụng hiệu quả, chưa thực sự đi vào cuộc sống; chưa thu hút được nhiều cán bộ thực sự có tài, có đức, có tâm phục vụ đất nước.
Bốn là, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo cũng như nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nhân lực chưa bắt kịp nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chưa thu hút được nhiều nguồn lực quốc tế để góp phần phát triển nhân lực của Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam đã chứng tỏ việc Đảng ta vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề con người và phát huy nhân tố con người là hoàn toàn đúng đắn. Con người luôn đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước. Lịch sử cho thấy, khi nào nhân tố con người được phát huy thì đất nước phát triển mạnh, bền vững, xã hội bình yên, kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân ổn định. Ngược lại, khi nào nhân tố con người không được phát huy thì kinh tế, xã hội không phát triển được.
Nhận thức rõ quy luật đó, Đảng ta luôn thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất, xem việc chăm lo cho hạnh phúc của Nhân dân là mục tiêu quan trọng nhất. Nhờ có chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, đời sống của Nhân dân được cải thiện rõ rệt, con người được tạo điều kiện để phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Từ đó, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”10.
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 11.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 44.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 89.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 54.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 21.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 163.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 179.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 105.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 126 - 127.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 26.
ThS. Nguyễn Thị Quỳnh
Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I